Đây là bài viết tìm hiểu về thơ Đường luật rất đầy đủ và rõ ràng của
nhà biên khảo Vinh Hồ. Quang Nam đăng lại nguyên văn để giúp các bạn chưa quen
với thể loại thơ này có thể dễ dàng hiểu nhanh và áp dụng vào sáng tác của
mình.
Thơ
Ðường luật phổ biến trên thi đàn Việt Nam xưa, xuất xứ từ đời Ðường (618-907)
bên Tàu, có luật lệ nhất định, thường gọi là Thơ Luật để phân biệt với Thơ Cổ
Phong xuất hiện trước đời Ðường không có luật lệ nhất định.
Thơ Luật có 4 thể: Ngũ
Ngôn Tứ Tuyệt, Ngũ Ngôn Bát Cú, Thất Ngôn Tứ Tuyệt, Thất Ngôn Bát Cú. Thất Ngôn
Bát Cú có luật lệ gò bó khó làm nhất nhưng lại được các Cụ ưa thích nhất,
thường dùng để bày tỏ tình cảm ý chí, ngâm vịnh, trào phúng, xướng họa, thù
tạc, chúc mừng quan hôn, khai bút đầu Xuân...
Lúc đầu làm bằng chữ
Hán, đến đời Trần, Hàn Thuyên là người đầu tiên làm bằng chữ Nôm, nên Ðường
luật còn gọi là Hàn Luật. Từ đó thể Thất Ngôn Bát Cú trở thành độc tôn trên thi
đàn, ngay trong các kỳ thi cũng bắt thí sinh làm một bài.
Sau đây xin trình bày
khái quát về bố cục và luật lệ căn bản của thể thơ này:
I. BỐ CỤC: Một bài thơ Thất Ngôn Bát Cú có 4 phần:
1- Mạo: là mào đầu
(vào bài) còn gọi là Ðề, gồm:
- Phá đề (câu 1) nghĩa
là mở ra, giới thiệu tựa đề.
- Thừa đề (câu 2) nghĩa
là chuyển xuống.
2- Thực hay
Trạng: gồm câu 3 + 4: giải thích, khai triển tựa đề.
3- Luận: gồm câu
5+6: bàn luận ý nghĩa của bài.
4- Kết: gồm câu
7+8: tóm tắt ý nghĩa, bày tỏ tình cảm, thái độ.
II. LUẬT LỆ CĂN BẢN:
1- Vần: là bộ phận
chủ yếu của âm tiết trong tiếng Việt là âm tiết trừ đi phụ âm đầu nếu có.
Ví dụ: "tà, hoa,
nhà, gia, ta" trong bài Qua Ðèo Ngang có cùng một vần "a".
Vần có vần bằng, vần
trắc, độc vận, ép vận. Trong thất ngôn bát cú chỉ gieo 1 vần, gọi là độc vận
rơi vào 5 chữ cuối của 5 câu: 1, 2, 4, 6, 8 thường là vần bằng, ít khi dùng vần
trắc, 5 chữ này tránh trùng nhau, phải hiệp vận cho đúng nếu gieo sai gọi là
lạc vận, gieo vần không sát gọi là gượng ép.
Ghi chú:
Vần có cước vận (vần ở
cuối câu), và yêu vận (vần ở lưng câu).
Vần điệu: Ðiệu là đều
đặn, là số chữ đều đặn trong mỗi câu thơ, như điệu thất ngôn mỗi câu 7 chữ,
điệu lục bát gồm 1 câu 6, 1 câu 8. Riêng điệu ca trù mỗi câu bao nhiêu chữ cũng
được, trừ câu chót bắt buộc 6 chữ.
Nhịp
điệu: Nhịp là cách ngắt đoạn đều đặn trong câu thơ. Nhịp điệu là cái dáng đi
khi mau khi chậm trong thơ.
Tiết tấu: tiết là đốt,
là đoạn ngắn, tấu là đánh nhạc, là đọc cao lên.
Thi nhạc (gồm vần,
điệu, nhịp, tiết tấu): Nhà thơ dùng âm thanh (tượng thanh), dùng sự thay đổi
của của âm, độ cao thấp của thanh, sự đều đặn của vần điệu nhịp điệu, sự nhịp
nhàng của tiết tấu... làm cho bài thơ đọc lên như một bản nhạc gọi là thi nhạc.
2. Ðối: là
phép đặt 2 câu thơ đối nhau gồm có:
Ðối chữ: bằng đối trắc,
trắc đối bằng, danh từ đối danh từ, động từ đối động từỳ...
Ðối ý: ví dụ cảnh dưới
núi đối cảnh bên sông, cảnh động đối cảnh tĩnh như trong 2 câu thực của bài Qua
Ðèo Ngang.
Trong thể thơ này, 2
câu thực phải đối nhau, 2 câu luận phải đối nhau.
Sau đây xin mời quý vị
thưởng thức những cặp đối thần sầu của các thi sĩ tiền bối:
* Thi
hào Nguyễn Trãi:
- Hương cách
gác vân thu lạnh lạnh
Thuyền kề bãi tuyết
nguyệt chênh chênh
- Khách đến chim
mừng hoa xẩy rụng
Chè tiên nước kín
nguyệt đeo về
- Miệng thế nhọn
hơn chông mác nhọn
Lòng người quanh nữa
nước non quanh
* Bà Chúa thơ Nôm
Hồ Xuân Hương:
- Năm thì mười họa
chăng hay chớ
Một tháng đôi lần có
cũng không
- Cố đấm ăn xôi, xôi
lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn
không công
(Làm
Lẽ)
("Cố đấm ăn
xôi" và "Làm mướn không công" là 2 câu tục ngữ)
- Duyên thiên chưa thấy
nhô đầu trọc
Phận liễu sao đà nảy
nét ngang
(Không
Chồng Mà Chửa)
(Trong Hán tự, chữ
THIÊN nếu kéo nét phẩy nhô lên thì thành ra chữ PHU là chồng. Chữ LIỄU nếu thêm
nét ngang thì thành ra chữ TỬ là con)
- Ðôi gò bồng đảo sương
còn ngậm
Một lạch đào nguyên
suối chửa thông
(Thiếu
Nữ)
- Chày kình tiểu để suông
không đấm
Tràng hạt vãi lần đếm
lại đeo
(Chùa
Quán Sứ)
("suông không
đấm" và "đếm lại đeo" đều có nghĩa nói lái rất tục)
- Khi cảnh, khi tiu,
khi chũm chọe
Giọng hi, giọng hỉ,
giọng hi ha
(Sư
Hổ Mang)
- Gió giật sườn non kêu
lắc cắc
Sóng dồn mặt nước vỗ
long bong
(Kẽm
Trống)
* Thi sĩ Nguyễn
Khuyến:
- Lưng giậu phất phơ
màu khói nhạt
Làn ao lóng lánh ánh
trăng loe
- Sóng biếc theo làn
hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẻ
đưa vèo
- Tầng mây lơ lững trời
xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách
vắng teo
* Thi sĩ Trần Tế
Xương:
- Học đã sôi cơm nhưng
chửa chín
Thi không ngậm ớt thế
mà cay
- Ðì đẹt ngoài sân
tràng pháo chuột
Om sòm trên vách
bức tranh gà
- Chí cha chí chát khua
giày dép
Ðen thủi đen thui cũng
lụa là
- Van nợ lắm khi tràn
nước mắt
Chạy ăn từng bữa mướt
mồ hôi
- Sỉ khí rụt rè gà phải
cáo
Văn chương liều lĩnh
đấm ăn xôi
- Một tuồng rách rưới
con như bố
Ba chữ nghêu ngao vợ chán
chồng
- Ví cho thi đỗ làm
quan lớn
Thì cũng nhỏ to cưới
chị hầu
- Tiễn chân cô mất hai
đồng lẻ
Sờ bụng thầy không một
chữ gì
("Gà phải
cáo" và "Cố đấm ăn xôi" là 2 câu tục ngữ)
3. Luật: tức
thanh luật là quy tắc xếp đặt thanh bằng (B) thanh trắc (T) cho mỗi chữ trong
một câu thơ theo lệ:
"Nhất tam ngũ bất
luận": bất luận là không ràng buộc,
"Nhị tứ lục phân
minh": phân minh là rõ ràng bắt buộc đồng thời phải tuân theo thanh:
"nhị bằng tứ trắc lục bằng", hay ngược lại: "nhị trắc tứ bằng
lục trắc"
- Sau đây là bài
thất ngôn bát cú luật bằng vần bằng:
Câu
1: BBTTTBB
Câu 2: TTBBTTB
Câu 3: TTBBBTT
Câu 4: BBTTTBB
Câu 5: BBTTBBT
Câu 6: TTBBTTB
Câu 7: TTBBBTT
Câu 8: BBTTTBB
- Sau đây là bài thất
ngôn bát cú luật trắc vần bằng:
Câu 1: TTBBTTB
Câu 2: BBTTTBB
Câu 3: BBTTBBT
Câu 4: TTBBTTB
Câu 5: TTBBBTT
Câu 6: BBTTTBB
Câu 7: BBTTBBT
Câu 8: TTBBTTB
Âm
là tiếng động phát ra khi đọc một nguyên âm. Thanh là độ cao thấp của âm. Mỗi
âm trong tiếng Việt có 6 bực độ quy định bởi 6 dấu: 2 thanh BẰNG gồm trầm (dấu
huyền) và phù (không dấu), bốn thanh TRẮC gồm thượng (dấu sắc, dấu ngã), và khứ
hay nhập (dấu hỏi, dấu nặng).
Trong
một câu thơ, tất cả những chữ cùng một thanh nên thay đổi bực độ.
Trong bài thất ngôn, chữ thứ 3 các câu chẵn và chữ thứ 5 các
câu lẻ, đáng là bằng mà đổi ra trắc gọi là khổ độc (nghĩa là khó đọc). Trong 1
câu thơ, chữ nào đáng đặt tiếng bằng mà lại đặt tiếng trắc, hay đáng đặt tiếng
trắc mà lại đặt tiếng bằng thì gọi là thất luật.
4.
Niêm: nghĩa là dán cho dính lại. Phép niêm trong thơ là quy tắc sắp xếp
các câu thơ trong bài dính lại với nhau về âm điệu, hay nói một cách khác NIÊM
là sự liên lạc về âm luật của 2 câu thơ với nhau. Trong bài Ðường Luật, hai câu
1 và 8, 2 và 3, 4 và 5, 6 và 7 niêm với nhau.
Hai chữ thứ hai cùng
một thanh được sắp xếp như sau đây hay ngược lại:
Chữ thứ 2 câu 1: trắc
Chữ thứ 2 câu 2: bằng
Chữ thứ 2 câu 3: bằng
Chữ thứ 2 câu 4: trắc
Chữ thứ 2 câu 5: trắc
Chữ thứ 2 câu 6: bằng
Chữ thứ 2 câu 7: bằng
Chữ thứ 2 câu 8: trắc
Nếu không theo đúng như
thế gọi là thất niêm.
III. VÍ DỤ: một bài thơ mẫu:
Qua Ðèo Ngang
Bước tới Ðèo Ngang bóng
xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen
hoa
Lom khom dưới núi, tiều
vài chú
Lác đác bên sông, rợ
mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con
quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng
cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời
non nước
Một mảnh tình riêng ta
với ta.
(Bà
Huyện Thanh Quan)
Ðây là bài thơ Ðường
luật thất ngôn bát cú luật trắc (chữ TỚI) vần bằng (chữ TÀ). Niêm luật vần đối
đúng phép. Bố cục chia làm 4 phần rõ rệt:
Mạo: giới thiệu tổng
quát cảnh Ðèo Ngang.
Thực: tả cảnh Ðèo
Ngang.
Luận: nhớ nước thương
nhà.
Kết: tình riêng tác
giả.
Về vần: Năm chữ: tà,
hoa, nhà gia, ta: vần với nhau rất chỉnh.
Về đối: Hai cặp thực và
hai cặp luận đối nhau chan chát: chữ đối chữ, ý đối ý.
Về luật: Luật trắc (ở
chữ TỚI). Cả 8 câu thơ đều đúng luật.
Về
niêm: Rất chặt chẽ: chữ TỚI niêm với chữ CẢNH cùng là trắc, chữ CÂY niêm với
chữ KHOM cùng là bằng, chữ ÐÁC niêm với chữ NƯỚC cùng là trắc, chữ NHÀ niêm với
chữ CHÂN cùng là bằng.
IV. KẾT LUẬN:
Trên
đây chỉ là những quy tắc căn bản, khi làm thơ có nhiều thi gia đôi lúc không răm
rắp tuân theo trăm phần trăm mà bài thơ vẫn hay, vì tác giả đặt cái thần/ hồn
của bài thơ cao hơn luật tắc. Ví dụ như bài "Thu Vịnh" của Nguyễn
Khuyến gieo vần "ao" nhưng câu 2 lại gieo vần "iu":
Trời thu xanh ngắt mấy
từng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt
hiu
Và bài "Tổng Vịnh
Truyện Kiều" của Chu Mạnh Trinh gieo vần "ương" nhưng câu 4, câu
8 lại gieo vần "ang" là "chàng" và "vàng":
Cuốn ngỏ rèm xuân trải
mấy sương
Sắc tài chi lắm để làm
gương
Công cha bao quản liều
thân thiếp
Sự nước xui nên phụ với
chàng
... Ðem bắt đồng cân
đáng mấy vàng.
Chữ
"chàng" tuy gieo không chính vận, nhưng khi đọc lên... nó phát ra một
âm thanh nghe não nề, trầm buồn, vang dội trong tâm hồn ta.
Bài "Thu
Ðiếu" của Nguyễn Khuyến về bố cục, tác giả say mê "tả cảnh" suốt
cả 8 câu; còn về vần thì trong 5 chữ : "veo, teo, vèo, teo, bèo", đã
có đến 2 chữ "teo" trùng nhau vốn là điều cấm kỵ trong 1 bài thơ
luật, nhưng ở đây cụ Tam Nguyên Yên Ðỗ vẫn mạnh dạn sử dụng, vì Cụ thấy 2 từ
ngữ ấy (tẻo teo, vắng teo) diễn đạt được tình cảm của Cụ. Ðiều này cho thấy Cụ
là một nhà Nho phóng khoáng có bản lĩnh trong sáng tạo. Và bài Thu Ðiếu xưa nay
vẫn được nhiều người công nhận là một trong những bài thơ tả cảnh mùa Thu hay
nhất trong thơ ca Việt Nam .
Cũng chính vì luật tắc quá gò bó khó
khăn của nó mà giới Nho sĩ Việt Nam
đã bị kiềm hãm trong suốt một nghìn năm, chẳng để lại cho hậu thế được bao
nhiêu bài thơ hay so với thể thơ mới. Thời tiền chiến xảy ra một trận bút chiến
vang dội cả ba miền giữa thơ mới và thơ cũ, cuối cùng thơ cũ đại bại nhường thi
đàn lại cho thơ mới thống trị đến ngày nay. Ngay nhà thơ Quách Tấn chuyên làm
Thất ngôn bát cú với tác phẩm "Mùa Cổ Ðiển", về sau cũng từ giã nhảy
qua thể Thất ngôn tứ tuyệt với thi tập "Ðọng Bóng Chiều".
Ngày
nay, thể Thất Ngôn Bát Cú được nhiều người làm sống lại bằng những hình thức
cách tân noi theo bước chân tiền phong của các nhà thơ tiền bối có bản lĩnh
sáng tạo như Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương... mạnh
dạn từ bỏ phong cách quý phái, đài các, cung đình: ưa xài điển tích, thích dùng
Hán tự, vọng ngoại, vong bản, bắt chước, sáo mòn... để trở về với tình tự cội
nguồn dân tộc Việt Nam đầy sinh động và sáng tạo của mình.
VINH HỒ 18/11/2008
Bai viet nay cua nha bien khao Vinh Ho rat bo ich cho nhung moi lam quen voi Tho Duong Luat .
Trả lờiXóaTho Duong Luat la mot the tho da co tu rat lau , chiu su rang buot voi nhung quy tac nghiem nghat , kho lam , nhung lai la vien ngoc quy trong kho tang tho , nhung thi si tru danh da van dung linh hoat va nhuan nhuyen de lai cho doi nhieu thi pham bat hu song mai voi thoi gian .
Cam on va tran trong !