Thứ Năm, 28 tháng 2, 2013

Giải mã ca từ Trịnh Công Sơn


Nhân kỷ niệm 10 năm ngày nhạc sĩ Trịnh Công Sơn về cõi thiên thu 1/4 (2001-2011), Nhà xuất bản Trẻ xuất bản cuốn sách “Thư tình gửi một người” tập hợp hơn 300 trang thư tình của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn gửi Ngô Vũ Dao Ánh, người tình có ảnh hưởng mạnh mẽ và lâu bền trong cảm hứng sáng tạo âm nhạc của nhạc sĩ. Điều đặc biệt là thông qua hàng trăm trang thư tình mà Dao Ánh đã cất giữ tận đáy lòng gần nửa thế kỷ nay, người đọc không những được thưởng thức những trang thư tài hoa lấp lánh mà còn được thâm nhập sâu vào thế giới nội cảm phong phú của Trịnh Công Sơn, từ đó hiểu sâu hơn về ca từ và con người Trịnh Công Sơn.

Thứ Hai, 25 tháng 2, 2013

VÕ SĨ GÀ

VÕ SĨ HẠNG GÀ!



(Từ DƯƠNG NGUYỄN)

CƯỜI LÊN ĐI BÉ


(DƯƠNG NGUYỄN)

TRÒ KHỈ!



SỨC KHỎE LÀ VÀNG




(DƯƠNG NGUYỄN)

AI LÀ PHÁI MẠNH?

DƯƠNG NGUYỄN

HẾT CÁCH!

DƯƠNG NGUYỄN

VĨNH BIỆT NHÉ!

DƯƠNG NGUYỄN

BẠN CHÍ CỐT

DƯƠNG NGUYỄN

CẢNH GIÁC!

DƯƠNG NGUYỄN

SÁNG CHẾ




Thứ Năm, 21 tháng 2, 2013

Phép mầu Giảo cổ lam



Kể từ khi xuất hiện trên thị trường Việt Nam, nhiều câu hỏi bán tín bán nghi đã được đặt ra: Giảo cổ lam có chữa được bách bệnh như quảng cáo trên hộp trà? Công dụng của nó sẽ được phát huy bao nhiêu lâu sau khi uống?...

Thứ Hai, 18 tháng 2, 2013

GỪNG CÀNG GIÀ CÀNG CAY


Trong trang trại có 10 con gà mái, một con gà trống già được ông chủ đặt cho một cái tên rất hình tượng là Ôkê và một “tân binh” gà trống tơ cũng được đặt tên rất mĩ miều là Anna. Đây là lần thứ tư ông chủ mua về một con trống tơ để thay thế lão trống già Ôkê. Ôkê gạ gẫm chú lính mới chia đôi số gà mái, nhưng Anna từ chối phắt. Thế là Ôkê liền diễn một vở kịch:

- Chú trông thế mà chưa chắc đã khỏe hơn tôi đâu! Hay ta chạy thi?

- Ok, được ăn cả, ngã về… hưu!

- Chú chấp tôi nửa vòng sân chứ?

- Chơi luôn, bắt đầu đi!

Vừa là đạo diễn, vừa đóng vai chính, Ôkê vừa chạy trước vừa hét ầm ĩ. Nghe thấy tiếng ồn, ông chủ liền ra xem và lại nhìn thấy cảnh Anna mới mua đang đuổi theo đòi “đạp” Ôkê. Sau một phát súng, ông chủ xách kẻ “ngựa non háu đá” vào bếp, vừa đi vừa lầm bầm:

- Chợ dạo này toàn bán gà... pêđê!

CHUYỆN TIẾNG VIỆT: ĐỪNG VỘI VÀNG


                                          CHUYỆN TIẾNG VIỆT:  ĐỪNG VỘI VÀNG
(Trao đổi với tác giả Hoàng Hồng Minh)
ThS. Đào Tiến Thi
(NXB Giáo dục Việt Nam)
Trong bài Chuyện viết tiếng Việt của tác giả Hoàng Hồng Minh (HHM) trên tạp chí Tia sáng ngày 16-08-2011[i], ngoài việc đặt ra vấn đề nên đưa thêm mấy chữ cái (ký tự) F, J, W, Z vào bảng chữ cái tiếng Việt hay không (điều mà dư luận có ồn lên khoảng tháng nay), tác giả còn bàn thêm hai vấn đề của tiếng Việt: viết tên riêng nước ngoài và viết các từ ghép, từ láy (HHM gọi chung là “từ kép”) trong tiếng Việt.
Tôi xin được trao đổi một số ý kiến với tác giả. Vì không rõ tác giả là ông hay , tuổi tác thế nào nên xin được tạm gọi là bạn, mong tác giả thông cảm.
1. Vấn đề thêm các chữ F, J, W, Z vào bảng chữ cái tiếng Việt
HHM đưa ra một số dẫn chứng về sự có mặt của các chữ cái F, J, W, Z trong văn bản tiếng Việt, ví dụ nói lợn F1; từ A đến Z. Không ai phủ nhận điều đó. Tôi có thể bổ sung thêm hiện tượng trên một cách phong phú hơn nhiều, đó là việc dùng các ký tự F, J, W, Z (và nhiều ký tự khác nữa) để ghi các công thức toán, vật lý, hóa học,… để ghi các đơn vị đo lường, như tính công là J (June), tính công suất là W (Watt),…Và nhất là để ghi tên riêng (gồm địa danh và nhân danh) nước ngoài và các thuật ngữ khoa học có nguồn gốc nước ngoài. Các ký tự đó đã được dùng từ lâu, ngày nay lại càng dùng nhiều hơn. Tuy nhiên việc các ký tự trên có mặt trong văn bản tiếng Việt không có nghĩa là nó đã thuộc về hệ chữ cái tiếng Việt. Dễ nhận thấy điều này khi ngoài những ký tự trên ta còn dùng cả các ký tự khác như  a, b, F, e, g, p, l, j, m,… để làm các ký hiệu ghi các công thức khoa học, kỹ thuật. Không ai dám nói những ký tự ấy cũng thuộc về chữ cái tiếng Việt. Còn như trường hợp viết tắt trung ương thành TW là viết sai; viết sai nhưng nhiều khi người ta bắt chước nhau mà thành thói quen ở một số người.
Hệ thống chữ cái của chữ Quốc ngữ (QN) là hệ thống chữ cái ghi âm. Nhìn chung mỗi âm tương đương với một chữ cái. (Một số trường hợp không tương đương, như c, k, q cùng ghi âm “cờ”; d, gi cùng ghi âm “dờ” có lý do về nghĩa và về văn hóa). Đưa thêm một chữ cái vào một hệ thống đã có thì nó phải mang chức năng ghi một âm nào đó. Nhưng hệ thống chữ cái của tiếng Việt đã đủ rồi, bây giờ thêm vào hệ thống ấy nó sẽ hoặc là không ăn nhập gì, hoặc là phá vỡ hệ thống. Ví dụ, đã có tổ hợp “ph” để ghi âm “phờ” thì chữ cái “f” sẽ ghi âm gì? Đã có chữ cái “d” và “gi” để ghi âm “dờ” thì chữ cái “z” sẽ ghi âm gì? Còn nếu để thay thế một số chữ cái cũ thì lại hoàn toàn là chuyện khác.
2. Vấn đề viết tên riêng nước ngoài
HHM viết: “Sau những thói quen ban đầu cố gắng mòn mỏi để Hán Việt hóa bằng được các tên riêng trên thế giới cho bùi tai mình, chúng ta đã vượt được dần ra khỏi cái thói quen cố hữu lấy mình làm trung tâm này” (chúng tôi nhấn mạnh).
 Nếu bạn HHM biết rằng trước khi người Pháp vào Việt Nam, người Việt Nam biết đến thế giới Phương Tây chủ yếu qua sách báo Trung Quốc (hay có tiếp xúc trực tiếp thì cũng phải dùng văn tự Hán để ghi lại) thì chắc không kết luận như trên. Trước khi chữ QN được sử dụng rộng rãi, chúng ta sử dụng chữ Hán, mà dùng chữ Hán thì phải đọc theo âm Hán Việt. Ví dụ, Alexandre de Rhodes thì đọc là A Lịch Sơn Đắc LộPigneau de Behaineđọc là Bá Đa Lộc. Đầu thế kỷ XX, trong phong trào vận động duy tân, các chí sỹ cách mạng Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và nhiều chí sỹ khác đều tiếp cận với tư tưởng dân chủ tư sản Âu Mỹ thông qua sách báo của phong trào duy tân ở Trung Quốc, cho nên ngay cả khi dùng chữ QN, các tên riêng Ấn Âu vẫn thường được đọc theo âm Hán Việt: Lư Thoa (Rousseau), Mạnh Đức Tư Cưu (Montesquieu), Kha Luân Bố (Christopher Columbus). Một số nhỏ trong cách đọc đó tồn tại đến nay: Anh, Pháp, Mỹ (Hoa Kỳ), Ba Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan, Thụy Sỹ, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ. Dù bây giờ hầu hết các tên riêng còn lại đều đã đọc theo phiên âm trực tiếp (hoặc như nguyên ngữ) nhưng với các tên riêng trên đã rất quen thuộc nên cũng không cần phải thay đổi. Ai đã biết một chút Anh ngữ thì không khó đồng nhất các tên nước nói trên vớiEngland, France, America, Poland,… Một vài trường hợp phiên âm lại là do sự đề nghị của chính phủ (không chắc là của tất cả người dân) nước ấy, như Úc ® Ô-xtrây-li-a (Australia), Ý ® I-ta-li-a (Italy, Italiana)[ii]. Tuy nhiên trong những trường hợp cụ thể, cách đọc Hán Việt vẫn được dùng: bia Úc, Hội Doanh nhân Việt kiều Úc. Những trường hợp thay bằng phiên âm trực tiếp có cái lý của nó, nhưng những trường hợp vẫn giữ cách đọc Hán Việt cũng có cái lý của nó. Quy luật hàng đầu chi phối ngôn ngữ là tính quy ước (võ đoán). Một khi hình thành thói quen sử dụng của đa số có nghĩa là cộng đồng đã nhất trí như vậy.  
Về các tên riêng Đông Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên), HHM có cách giải thích thật kỳ quặc khi viết:
“Từ bao giờ chúng ta tự cho mình có nghĩa vụ phải chuyển âm Hán Việt các tên riêng Trung Hoa hay Triều Tiên”.
Hay: “Nơi đâu “thân thiện” thì người ta gắng Hán Việt hóa, bằng không thì thôi. Hồng Kông xưa là nhượng địa của Anh nên thôi, không cần gọi là “Hương Cảng”. Các tên riêng ở Đại Hàn cũng khỏi bị cố gắng được Hán Việt hóa nhiều vì “không thân lắm”. Tên riêng của Nhật Bản thì miễn phải Hán Việt hóa (…) Phải học tránh sự thiên vị trong nhận thức”.
Trường hợp các nước Đông Á, ngoài nguyên nhân đã nói trên, còn do lịch sử quan hệ lâu đời của Việt Nam đối với họ. Trung Quốc có nhiều quan hệ nhất do đó hầu như tất cả các tên riêng đều đọc theo âm Hán Việt (sẽ nói rõ hơn ở phần sau). Triều Tiên ít quan hệ hơn cả nên số tên riêng đọc theo âm Hán Việt cũng ít. Còn Nhật Bản thì không phải “miễn phải Hán Việt Hóa” như bạn HHM tưởng đâu. Không ít tên người, tên đất Nhật Bản đọc bằng âm Hán Việt. Lý do là đầu thế kỷ XX, Nhật Bản là tấm gương của Á châu đã giương cao ngọn cờ tự lập tự cường, chơi “ngang ngửa” với Tây Phương. Cụ Phan Bội Châu tìm hiểu nước Nhật qua sách báo Trung Quốc, và rồi chính cụ cùng một số đồng chí của mình đã đưa khoảng 200 thanh niên Việt Nam sang Nhật du học. Do đó chúng ta biết đến một loạt tên người, tên đất Nhật Bản đọc theo âm Hán Việt như Phúc Trạch Dụ Cát(Fukuzawa), Minh Trị (Meiji), Đại Ôi hay Đại Ôi Trọng Tín (Okuma Shigenobu), Khuyển Dưỡng Nghị (Inukai Tsuyoshi), Đông Kinh (Tokyo), Hoành Tân (Yokohama),…
Về tên riêng Trung Quốc, có lẽ chỉ trừ trường hợp Hồng Kông[iii] (Hong Kong) còn thì từ xưa đã đọc theo âm Hán Việt. Nếu bây giờ chuyển cách đọc, xáo trộn hàng ngàn tên người, tên đất là chuyện không đơn giản. Ví dụ: Khổng Tử ® Kongzi , Gia Cát Lượng ® Zhuge Liang, Lý Bạch ® Li Bai, Lỗ Tấn ® Lu xun, Bắc Kinh ®Beijing, Quảng Châu ® Guang Zhou. Các tên người, tên đất Trung Quốc không những có mặt trong các tác phẩm của Trung Quốc đã quen thuộc ở Việt Nam mà trong chính văn chương Việt Nam cũng dùng không ít, nhưTruyện Kiều, Chinh phụ ngâm,… chẳng hạn.
Ngay cả các tên riêng Trung Quốc hiện đại nếu bây giờ đọc theo phiên âm La tinh cũng là cả một vấn đề phải cân nhắc kĩ. Vì nó vừa khó khăn (cách đọc phiên âm La tinh với tiếng Trung khác nhiều cách đọc trong các ngôn ngữ Ấn Âu), vừa trái với ngữ cảm thông thường. Đặng Tiểu Bình đọc là Dèng Xiǎopíng (Tung Xéo Pình),Hồ Cẩm Đào đọc là Hú Jǐntāo (Khú Chỉn Thao), vừa khó vừa buồn cười nữa. Chúng tôi đi Trung Quốc vẫn gọi các hướng dẫn viên người Trung Quốc theo âm Hán Việt, ví dụ: Tăng Quốc Vân (Zeng Quo Yun), Đặng Chiêu Thanh (Deng Zhao Qing), Tăng Tiêu Quang (Geng Yao Quang) và thấy như thế là ổn nhiều đường. Nếu cố gọi họ bằng âm Trung Quốc mà không chính xác có thể mang lại điều bất nhã, còn gọi theo âm Hán Việt thì đã có quy tắc, họ cũng nắm rất rõ. Nó khác hẳn trường hợp với người Phương Tây, ta phải cố gắng phát âm đúng như tên của họ.
Nói như vậy để thấy vấn đề ở đây chẳng phải do “thói quen cố hữu lấy mình làm trung tâm”, chẳng hề do“cố gắng mòn mỏi để Hán Việt hóa bằng được”, cũng chẳng phải do “thiên vị” hay “thân thiện” với Trung Quốc hay khối Đông Á hơn, mà thực ra nó là truyền thống văn hóa, là ngữ cảm của người bản ngữ, nghĩa là vấn đề của văn hóa – ngôn ngữ, chứ không liên quan gì đến “ý thức hệ” cả. Truyền thống ở đây đã đóng vai trò tích cực, giữ lại những gì phù hợp, chống “hiện đại hóa” một cách máy móc.
3. Vấn đề viết “từ kép”
Theo HHM, các “từ kép” như sinh vật, phải viết liền lại là sinhvật, và từ đấy cho đến hết bài, tác giả làm gương viết liền tất cả các “từ kép”:
hệthống, nốikết, thaotác, tinhthần họcsinhhiểubiết,chủquan,tiếptục, kiểmtra, nghingờ, nướcngoài, đánhvật, vôđịnh, táchrời, chínhxác, câuchữ, khuyếnkhích, thẩmđịnh, tốcđộ, đọchiểu, tốnkém, lưutrữ, giấytờ, vănbản, điệntử, khókhăn, tấtcả, nguyêndo, xưakia, chúngta, xâydựng, quốcngữ, tưởngnhớ, cônglao, đềxuất, giảipháp, hãnhữu, trườnghợp, gạchngang, hyvọng, quyếttâm, ýtưởng, tuyệtvời, tiếnlên, thốngnhất.
Riêng các từ như từ kép, chữ kép thì khi viết liền, khi viết rời; từ bộ nhớ không thấy viết liền, nhưng theo tôi, đó là những từ có cấu tạo “chặt” hơn nhiều so với từ đọchiểu, nướcngoài, tiến lên mà HHM viết liền.
Khái niệm “từ kép” của HHM không được định nghĩa nên có thể hiểu đó là từ ghép theo thuật ngữ ngành ngôn ngữ học, và cả từ láy, vì bạn viết liền cả từ khókhăn.
Hãy thử phân tích “tác hại” của lối viết rời mà bạn HHM chỉ ra:
1. Thứ nhất, bạn HHM cho rằng viết rời “làm tăng tính mất chính xác của câu chữ”, “khuyến khích tính chủ quan thẩm định”, “làm giảm tốc độ đọc hiểu”. HHM lấy ví dụ:
“Khi bạn đọc câu “Học sinh vật cô Na”, bạn phải cố làm một thao tác tinh thần để nối học sinh thành “họcsinh”, rồi kiểm tra xem có được hay không theo hiểu biết chủ quan của bạn. Bạn thấy được, và bạn tiếp tục kiểm tra câu này, và bạn nghi ngờ được, nhưng chắc không phải thế.
Tiếp đến bạn phải cố làm một thao tác tinh thần khác để nối “sinh vật” thành “sinhvật”, rồi kiểm tra xem có được hay không theo hiểu biết chủ quan của bạn. Bạn thấy được, và bạn tiếp tục kiểm tra câu này, và bạn tự bảo được, chắc là thế”.
(Nhấn mạnh trong nguyên văn)
Hỡi bạn HHM, nếu quả thực người Việt Nam đọc chữ Quốc ngữ theo kiểu mỗi “từ kép” lại phải làm “thao tác tinh thần” như trên thì mỗi cuộc đọc người Việt Nam là một cuộc đấu vật chứ không phải là đọc nữa. Đọc vất vả thế thì chắc thiên hạ đọc được 10 trang, ta chưa chắc nổi một trang, và người Việt Nam chắc chắn phải ngu hơn các dân tộc khác nhiều lần!
Xin nói thêm, những trường hợp như câu Học sinh vật cô Na, người ta gọi là “câu mơ hồ”, vì ngắt ở những chỗ khác nhau sẽ tạo nên nghĩa khác nhau. Loại câu này có số lượng rất ít và trong ngôn ngữ của nước nào cũng có, chứ đâu chỉ có ở tiếng Việt.
Và xin hỏi bạn HHM, việc viết liền các “từ kép” trong đoạn văn của bạn nói trên liệu có chính xác hơn được tí nào so với viết rời không? Có chỗ nào do viết rời mà trở nên mơ hồ nghĩa như câu Học sinh vật cô Na không?
2. Thứ hai, bạn HHM nêu một số hệ lụy khác như “làm tốn kém lưu trữ trên giấy tờ, văn bản hoặc trên các bộ nhớ điện tử”, “làm khó khăn cho người nước ngoài học tiếng Việt”.
Về việc “tốn kém” giấy, có thể, nhưng không đáng kể. Chỉ cần quan sát các sách luyện dịch Anh – Việt, Pháp – Việt, ta thấy độ dài các bài ở phần tiếng Việt so với tiếng Anh, Pháp là tương đương nhau (chia cột hay đặt trang song song cũng vẫn thấy như vậy, nếu có ép chữ hay giãn chữ cũng là không đáng kể)[iv]. Vả lại theo phương án viết liền để tiết kiệm giấy của bạn HHM thì cứ 2 “từ ghép” mới thu lại được một khoảng trống, mà số lượng “từ kép”, cũng chỉ chiếm một phần trong kho từ vựng (vì ngoài nó còn các từ đơn và các cụm từ), do đó chẳng bớt được bao nhiêu. Có lẽ 100 trang chưa chắc đã tiết kiệm nổi 1 trang. Còn lưu trong bộ nhớ điện tử thì tiếng Việt có nặng hơn vì có thêm dấu phụ, nhưng với bộ nhớ điện tử, phần nặng hơn đó cũng chả có nghĩa lý gì. Với những máy tính thế hệ cũ nhất, dung lượng chỉ vài GB cũng chẳng bao giờ bị đầy vì các tệp văn bản, huống chi các máy tính phổ biến đang dùng hiện giờ đều trên trăm GB.
Về việc “làm khó khăn cho người nước ngoài học tiếng Việt” thì thử hỏi chữ QN (cũng như tiếng Việt nói chung), để trước hết cho người Việt dùng hay là để cho người nước ngoài mà bạn lại lo vấn đề như vậy? Tiếng Anh được loài người khắp hành tinh học, thế mà người Anh chẳng bao giờ làm gì cho nó dễ đi để các dân tộc khác nhờ; trái lại, tất cả các dân tộc học tiếng Anh đều phải “quy phục” tiếng Anh, từ cách phát âm xa lạ cho đến mọi các quy tắc ngữ pháp rắc rối của nó.
Trở lại về cách viết liền từ. Không phải đến bây giờ mới có bạn HHM đưa ra phương án đó. Nhưng phương án đó không bao giờ thành hiện thực bởi những lý do sau:
Thứ nhất, nó trái với bản chất của tiếng Việt. Tiếng Việt là một thứ tiếng đơn âm. Đơn vị phát âm là âm tiết (tiếng). Ví dụ tiếng hiểu (trùng với từ hiểu), nếu phân tích ra thì có 4 âm tố[v]: (chưa kể thanh điệu):
h- i - ê - u
nhưng chỉ phát âm 1 lần. Ranh giới giữa các âm tố h- i - ê - u không thể nào nhận thấy, dù người thính tai đến đâu. Cách đọc “hờ-i-ê-u-iêu-hỏi-hiểu” chỉ dành cho trẻ em bắt đầu học chữ và giai đoạn đó qua đi rất nhanh, sau đó không bao giờ lặp lại nữa.
Trong khi đó, các tiếng châu Âu là tiếng đa âm, đơn vị phát âm là âm tố. Ví dụ từ understand (hiểu) trong tiếng Anh, ta phải phát âm đầy đủ, kể cả cả âm /d/ở cuối:
Ùndəstænd
Và việc đọc nối các âm tố lại là cần thiết, kể cả khi nó là hai từ khác nhau, như Thank you chẳng hạn.
Thứ hai, ranh giới từ trong tiếng Việt không rõ ràng. Trong nhiều trường hợp, hai yếu tố có quan hệ nghĩa ở một mức độ nào đó không đủ chặt để tạo thành một từ nhưng cũng không đủ lỏng để coi là hai từ, tức là tình trạng “lưỡng khả”: nhà xuất bản là 1 hay 2 từ? trường dạy nghề là 1, 2 hay 3 từ? Nếu coi nhà hàng là một từ thì nhà văn hóa, nhà chung cư có là một từ không? Các trường hợp đồng cỏ, sân kho, trại chăn nuôi, đường thủy, đường mòn, đường độc đạo, đường chiến lược,.. lại càng khó.
Thứ ba, nếu viết liền, việc đọc cũng trở nên khó khăn: không biết ngắt ở chỗ nào, nếu từ ấy chưa quen thuộc với một người (nhất là với trẻ em mới học và người nước ngoài học tiếng Việt): hệthống có thể đọc thành hệt hốngđọchiểu thành đọ chiểu, pháthành thành phá thành, phátâm thành phá tâm. Bạn HHM nhắc đến học giả Hoàng Xuân Hãn đã khởi đầu cho cách viết liền, vậy cần hiểu vấn đề này như thế nào?
Thực ra tiền đề của cách viết liền là cách viết dùng gạch nối đã có rải rác từ đầu thế kỷ XX, tuy nhiên nó không tạo ra được quy tắc. Ví dụ bài Mừng năm mới trên báo Nam Phong số Tết năm 1918, viết gạch nối cho các từ ghép và từ láy: Đinh-tị, Mậu-ngọ, cảnh-tượng, phúc-lộc, thời-kỳ, lăng-lắc, dằng-dặc,… Thế nhưng cũng trong bài báo này, nhiều từ ghép, từ láy lại không gạch nối: nhà nước, khai hoang, ghi chép, hưởng thụ, quý báu, mở mang, lẩn thẩn,… Có khi mâu thuẫn không thể chấp nhận, như viết tàu-thủy (gạch nối) nhưng lại viết xe hỏa(không gạch nối).
Cách viết dùng gạch nối hay viết liền của của Hoàng Xuân Hãn cũng vậy. Trong (lời) Tựa cuốn Danh từ khoa học, xuất bản năm 1942, ông dùng gạch nối cho các từ ghép và từ láy nhưng không nhất quán. Viết tự-điển, khoa-học, danh-từ, tương-đương, cựu-học, chu-đáo, hiếm-hoi, lầm-lỗi,… nhưng lại viết quyết định, nước nhà, bó buộc, bắt bẻ, xưa nay, tóm tắt, may mắn, chậm chạp,… Khi tái bản (1946), trong Nguyên tựa, ông bỏ gạch nối, thay bằng viết liền: khoahọc, danhtừ, pháthành, xuấtbản, thuậntiện, rõràng, dodự,… thế nhưng cũng không nhất quán khi viết giải thưởng, mách bảo, sửa soạn, ít nhiều,… Và rất mâu thuẫn khi viết hàmsố (viết liền), mà lại viết số thương (viết rời).
Hoàng Xuân Hãn là nhà khoa học lớn, có nhiều cống hiến, ai cũng biết thế, nhưng không phải tất cả mọi ý kiến của ông đều đúng. Hơn nữa ấn phẩm trên là một trường hợp hiếm hoi, mang tính đề xuất, thử nghiệm, sau này cũng không thấy ông nhắc lại. Nó không được cuộc sống chấp nhận vì cả tính khoa học (không phù hợp với tiếng Việt – ngôn ngữ đơn âm) và cả tính khả thi (khó xác định ranh giới từ) như đã nói trên.
Chúng tôi muốn đưa thêm ý kiến của một số nhà khoa học về quan hệ chữ  tiếng của chữ QN.
Theo học giả Cao Xuân Hạo, việc dùng chữ QN thực ra là không phù hợp với đặc thù của tiếng Việt. Với đặc thù đơn âm, tiếng Việt thích hợp với thứ chữ mang “diện mạo tổng quát” (gestalt), như chữ Hán chẳng hạn, tức mỗi chữ là một “hình ảnh”, chứ không phải mỗi chữ ghi lại cái chuỗi âm tố mà thực ra thính giác con người không thể nhận ra được. Trong khi các tiếng châu Âu, về nguyên tắc, các âm tố trong từ đều hiển hiện khi phát âm.
Tuy vậy, do nắm được cái đặc thù đơn âm ấy của tiếng Việt nên những người chế tác ra chữ Quốc ngữ đã rất sáng tạo, đó là dùng lối viết rời từng âm tiết. GS. Nguyễn Quang Hồng đã chỉ ra hai đặc điểm của chữ QN trong quan hệ với đặc điểm của tiếng Việt[vi], đó là:
– “Nếu như các văn tự Latin khác đều lấy từ làm đơn vị để viết chữ (nghĩa là trong một từ, các chữ cái được viết liền với nhau một mạch), thì ở chữ QN của người Việt Nam đơn vị của một khối chữ tách biệt trong dòng viết là từng âm tiết một, chứ không phải là chỉnh thể từ ngữ”.
– Dùng dấu phụ một cách đậm đặc (vì không liên quan đến vấn đề đang bàn, nên không trình bày ở đây)
Theo Nguyễn Quang Hồng, chữ QN đã kế thừa chữ Hán và chữ Nôm. Chữ QN “tỏ ra rất thuận tiện đối với người bản ngữ”. Và: “Viết rời âm tiết một, chữ QN cất bỏ được một gánh nặng không cần thiết cho người viết chữ vì như thế là khi viết người ta khỏi phải làm cái công việc rắc rối là phân chia lời nói thành các đơn vị từ. Bởi vì đối với tiếng Việt, ranh giới từ ngữ là câu chuyện cực kỳ phức tạp, trong khi đó thì ranh giới âm tiết lại luôn luôn là sự thực hiển nhiên trong lời nói, ai cũng có thể xác định được một cách dễ dàng”.
GS. Nguyễn Quang Hồng viết tiếp: “Viết rời âm tiết và đánh dấu phụ là thành tựu mà những người xây dựng chữ QN đã đạt tới sau một quá trình lựa chọn, sáng tạo cách viết và thâm nhập dần vào bản thân tiếng Việt. Đó quyết không phải là cái gì ấu trĩ, thô vụng, bất cập của chữ Việt Latin so với các hệ thống chữ viết Latin khác. Ngược lại, chính đã không máy móc lặp lại hoàn toàn khuôn mẫu có sẵn, chính sự thoát ly ít nhiều khỏi hình ảnh của chữ viết ghi âm các tiếng châu Âu một cách hợp lý đó (đồng thời kế thừa truyền thống viết rời từng âm tiết một của chữ Nôm  vốn dĩ thích hợp với đặc điểm loại hình của tiếng Việt), đã làm thành một trong những nguyên nhân cơ bản đảm bảo cho công cuộc cải cách chữ viết diễn ra trong quá khứ (từ chữ Nôm kiểu Hán tự chuyển sang chữ QN Latin hoá) dẫn đến thành công một cách vững chắc vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX này”.
Chúng tôi muốn nói thêm tác động ở chiều ngược lại: Theo cảm nhận của chúng tôi, với cách viết rời từng âm tiết, chúng ta đã làm biến đổi phần nào chữ viết La tinh. Vốn từ một thứ chữ hoàn toàn ghi âm, các con chữ La tinh khi dùng làm chữ QN đã trở thành một thứ chữ có tính ghi ý (xin nhắc lại, tôi dùng chữ “có tính ghi ý” chứ không phải “ghi ý”). Bởi ta thấy các hiện tượng  sau:
– Quan hệ âm – chữ viết của chữ QN không phải là quan hệ mỗi âm tố  mỗi ký tự (chữ cái) như các tiếng châu Âu, mà là quan hệ mỗi khối âm (âm tiết, tiếng) – mỗi khối chữ (một chữ), giống phần nào với nguyên tắc của chữ Hán, chữ Nôm. Số chữ do đó tương đương với số lượng âm tiết có trong ngôn ngữ. (Nó khác hẳn các tiếng châu Âu: số chữ phải tương đương với số từ vựng). Điều này rất có ý nghĩa khi học chính tả tiếng Việt: không cần chú ý nhiều vào phát âm, ta vẫn hoàn toàn có thể viết đúng chính tả nhờ vào việc nhớ “mặt chữ”, bởi vì số lượng âm tiết – chữ là có hạn, ít hơn rất nhiều số lượng từ vựng. Thực tế, đa số chúng ta viết đúng chính tả là nhờ nhớ mặt chữ.
– Số ký tự (chữ cái) trong một chữ của chữ QN so với tiếng Anh, tiếng Pháp,… là rất ngắn (dài nhất như chữnghiêng gồm 7 ký tự, tương đương những từ có số ký tự trung bình của tiếng Anh, trong khi tiếng Anh có những từ dài tới 19 ký tự). Cho nên để đọc chữ QN, ta không qua “ráp vần” mà nhận dạng diện mạo tổng quát (gestalt) chữ đó như một hình ảnh thị giác, tức là đọc thẳng từng chữ một. Cũng có nghĩa khi đọc chữ QN, cơ bản là donhớ mặt chữ.  
–  Còn có thể thấy tính ghi ý qua việc đọc các chữ viết tắt trong tiếng Việt, đó là đọc như khi viết đầy đủ: BS = bác sỹ,GSTS = giáo sư tiến sỹ, HTX = hợp tác xã, XHCN = xã hội chủ nghĩa (chứ không đọc bê ét, giê ét tê ét, hát tê ích-xì, ích-xì hát xê en-nờ). Tức là những chữ cái ở đây hoàn toàn để ghi ý, không liên quan gì đến phát âm nữa. Nó khác hẳn tiếng Anh, đọc từng chữ cái hoặc ráp vần các chữ cái ấy, tức là hoàn toàn theo nguyên tắcghi âm: BBC = /bi:bi:si:/ (British Broadcasting Corporation, Tập đoàn Truyền thanh Anh), ASEAN = /æsi:æn/ (Association of Southeast Asia Nations, Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á)
Tóm lại, các ý kiến trong bài viết Chuyện viết tiếng Việt của bạn HHM là quá chủ quan và quá vội vàng. Hai ý đầu tuy nhận định không đúng tình hình nhưng từ đó cũng đặt ra được vấn đề cần tiếp tục giải quyết. Song ý thứ ba –  đề xuất lối viết liền từ thì quả là ấu trĩ. Bạn chưa thấy sự khác nhau cơ bản giữa tiếng Việt và các tiếng châu Âu, cho nên muốn rập khuôn theo cách viết liền từ của các ngôn ngữ châu Âu. Thế nhưng cách viết rời âm tiết trong từ của chữ QN đã là một quá trình tiếp thu có sáng tạo trên cơ sở chữ viết truyền thống và phù hợp với đặc trưng tiếng Việt. Theo tôi, việc dùng chữ cái La tinh nhưng lại ghi rời âm tiết là một sự sáng tạo tuyệt vời của những người chế tác và sử dụng nó, kể từ những người manh nha khởi xướng, như Gaspar do Amiral, Antonio Barbosa, Francesco Buzumi, Francesco de Pina, Cristoforo Borri cho đến người hoàn thiện nó – Giáo sỹ Alexandre de Rhode. Và đặc biệt là công lao của những trí thức Việt Nam đầu thế kỷ XX, những người đã mạnh dạn sử dụng nó, cổ vũ nhiệt tình cho nó, dùng nó thay thế cho chữ Hán (nhập ngoại) và chữ Nôm (chưa hoàn thiện). Cho đến nay, theo tôi, chữ QN đã hoàn thiện, không cần phải thêm bớt, cải tiến gì nữa.  


[ii] Cách dùng I-ta-li-a, Ô-xtrây-li-a phổ biến ở thập kỷ tám mươi, chín mươi, nay có xu hướng quay trở lại dùngÝ, Úc trên các báo và và tạp chí.
[iii] Trước khi trở thành thuộc địa của Anh, Hồng Kông là một bãi đá vô danh, cho nên không có gì lạ khi nó không có trong “bản đồ trí tuệ” của người Việt Nam. Khi thuộc về Anh, Hồng Kông trở thành một trung tâm kinh tế, do đó, tên riêng này đi vào ngôn ngữ các nước theo cách gọi của người Anh là lẽ đương nhiên.
[iv] So với chữ Anh, trên một dòng, chữ Quốc ngữ có nhiều chỗ trống hơn (do viết rời từ) nhưng vì các chữ có độ dài tương đương nhau, không có chữ quá dài hoặc quá ngắn cho nên lại không mất những khoảng trống lớn khi cân dòng như trong chữ Anh. Và do đó tương quan chung lại ngang nhau.
[v] Chúng tôi dùng thuật ngữ âm tố (thể hiện là bộ phận của âm tiết) cho dễ hiểu với đa số bạn đọc, thay vì âm vị, chính xác nhưng khó hiểu hơn.
[vi] Nguyễn Quang Hồng: Đặc điểm của chữ Việt La tinh trong quan hệ với đặc điểm của tiếng Việt, TC Ngôn ngữ số 2-1992.

Chủ Nhật, 17 tháng 2, 2013

Thú chơi tranh Tết của người Việt xưa



Tranh Tết từ lâu đã trở thành một tập quán, một thú chơi của người dân Việt Nam. Không chỉ kẻ có tiền mới chơi tranh, người ít tiền cũng có thể chơi tranh. Nó là một phần không thể thiếu trong không gian của ngày Tết cổ truyền xưa kia.

Tranh Tết là một phần hồn Việt trong lành, nhân hậu và đồng thời cũng là nơi lưu giữ những giá trị tâm linh sâu sắc. Những màu sắc rực rỡ như khơi gợi nên cảm giác mới mẻ ấm cúng rộn rã sắc xuân trong mỗi gia đình của người Việt.
Những ngày trước tết, người Đông Hồ (Thuận Thành, Bắc Ninh) mang tranh đi bán khắp nơi, người khắp nơi về đây cất tranh. Tranh Hàng Trống cũng rậm rịch trước đó vài thàng, in in, vẽ vẽ và trưng bày với một số lượng lớn các mẫu hàng hơn thường ngày cho dù lượng khách của thể loại tranh này kén hơn. Người ta cho rằng tập quán chơi tranh lâu đời này xuất phát điểm từ thời Lý (1010 -1225) và nhà Trần (1225 - 1400), nhưng thực tế lại không có một bằng chứng xác thực nào cả. Chỉ biết rằng nghề làm tranh với sự tinh tế đa dạng cũng như sự khác biệt giữa đề tài và kỹ thuật in của hai dòng tranh này từ lâu đã trở nên nổi tiếng.
Tranh Đồng Hồ thường được tạo ra bằng cách in chồng các ván màu lên nhau, sau đó bản nét được in cuối cùng để tạo nên thần thái của tác phẩm. Trong khi đó ngược hoàn toàn toàn qui trình này, tranh Hàng Trống là thể loại tranh được in một lần bản nét, để làm xương sống cho tác phẩm, sau đó người nghệ nhân phải gia công thêm bằng việc tô phẩm màu thì tác phẩm mới trở nên hoàn chỉnh. Cái duyên và khéo của tranh chính là các sắc độ đậm nhạt, sáng tối được tạo ra trên cùng một vệt màu. Do đó tuy cùng một bản in như nhau nhưng tuỳ cảm hứng của người tô mà các tác phẩm này dường như vẫn khác biệt nhau rõ rệt.
Cùng với các đặc trưng trên, thì kích cỡ các thể loại tranh của hai dòng tranh này cũng hoàn toàn khác nhau. Kiểu in nhiều bản màu của tranh Đông Hồ chỉ cho phép in trên giấy khổ nhỏ, thì mới có thể in nhanh và chính xác các chi tiết. Trong khi đó đối với tranh Hàng Trống kiểu in một lần rồi tô màu, lại cho phép các nghệ nhân làm tranh có thể sáng tác ra các mẫu tranh có khổ lớn và đi sâu hơn vào các chi tiết tỷ mỷ.
Điều này còn liên quan trực tiếp đến thú chơi tranh của người người xưa và nhu cầu trang trí nhà cửa sao cho hài hoà. Đối với nông thôn, các gia đình nghèo, nhà tranh vách đất, thì việc mua một tờ tranh nhỏ với giá phải chăng là điều hoàn toàn có thể. Cái khổ tranh bằng lá mít cũng rất thích hợp để có thể dán bất cứ đâu trong nhà mang lại một không khí vui tươi rộn rã. Còn đối với người thị thành, việc treo tranh, chơi tranh không đơn giản là chơi cho có không khí Tết, mà bức tranh còn đồng thời là vật trang trí để kiến tạo nên được một không gian sang trọng và quí phái. Nó còn chứng tỏ được gu thẩm mỹ của chủ nhà hay thậm chí cái lễ giáo gia phong của gia đình. Như giữa những bộ bàn ghế giả cổ với gam màu nâu sòng chạm trổ cầu kỳ, một bức tranh lớn với những màu phẩm rực rỡ khiến cho không gian phòng khách như được điểm xuyết để trở nên rạng rỡ.
Các đề tài trong tranh Đông Hồ hay Hàng Trống cũng vô cùng phong phú. Tuy nhiên là tranh treo Tết thì nội dung bao giờ cũng là cầu chúc cho những gì tốt đẹp nhất. Chúng là sự thể hiện của ước vọng hay lời cầu chúc cho gia chủ một năm mới sung túc đầy đủ. Các bức như Tiến Tài, Tiến Lộc, thường được dán ở cổng như muốn mời gọi thần tài đến nhà. Bộ tranh Phúc - Thọ với lời cầu “Phúc như đông hải” và “Thọ tỷ Nam sơn”là những chữ Hán rỗng, với hình minh hoạ rất phong phú nội dung câu chúc phía trong. Đây cũng là kiểu chơi thư họa đồng nguyên rất độc đáo của người Việt. Chữ Hán bao ngoài chỉ là cách mượn hình còn nét vẽ ở trong mới là sự tả ý. Nhiều chữ Phúc được vẽ một cách rất cầu kỳ với 24 hình ảnh về lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, hay ở chữ Thọ có tới 28 chòm sao. Các bức tranh này phần nhiều do các nghệ nhân Hàng Trống làm, bởi chỉ có giới thị dân mới ưa chuộng sự tinh tế, tỷ mỷ, cầu kỳ. Và chúng không chỉ được họ treo trong dịp tết, mà còn được đóng khung cẩn thận để treo một cách trang trọng giữa phòng như một bức hoành phi, hoặc bày đăng đối hai bên.
Ngoài ra ở tranh Hàng Trống còn có một số những tranh đơn cũng được treo vào dịp tết như “Cá chép trông trăng” hay“múa rồng”. Chúng vừa thể hiện cái triết lý âm dương giao hòa của người phương Đông vừa là lời cầu chúc cho một năm phồn thịnh với cái không khí xuân sắc tưng bừng. Hai bức tranh này cũng xuất hiện trong dòng tranh Đông Hồ, nhưng mang nhiều chất mộc mạc giản dị hơn. Ngoài ra một số đề tài khác cũng được ưa chuộng trong dịp Tết như “Gà đàn”, “Lợn đàn” ở dòng tranh Đông Hồ là khát vọng cho một năm sung túc, hay tranh những cậu bé mũm mĩm ôm gà, ôm vịt “Vinh hoa”, “Phú quí”tượng trưng điềm phúc. Chúng được in nhiều và có thể dán đâu cũng được tuỳ ý gia chủ.
Vào đầu năm mới cũng là dịp người ta quét tước sửa soạn lại bàn thờ, do vậy các tranh mang đề tài tín ngưỡng cũng được bày bán khá nhiều trong dịp tết như tranh ông Công, ông Táo. Trong các đền phủ thì là các tranh như Tam toà Thánh Mẫu, hay Tứ phủ, tranh vẽ về các ông Hoàng... hay các tranh ngũ quả cũng được nhiều người treo để thay thế cho những bức tranh của năm ngoái.
Trong những năm gần đây việc chơi tranh dân gian vào dịp Tết có xu hướng quay trở lại. Tuy rằng thú chơi tranh của người Việt không còn thuần nhất như những cái Tết cổ truyền xa xưa, do sự hội nhập và phát triển đa văn hoá hiện nay. Các tranh in sẵn của Trung Quốc tràn ngập trên thị trường, làm các thể loại tranh dân gian xưa có phần bị lép vế. Người ta cũng thấy có sự thay thế vị trí của các bức Tiến Tài, Tiến Lộc, Vinh Hoa, Phú quíbằng những tranh em bé ôm những thỏi vàng được dán trước cổng nhà hay cửa hiệu. Hay tranh cá, tranh rồng chế tác bằng vi tính được treo và dán ở khắp nơi. Trông chúng thì có vẻ hào nhoáng nhưng lại không đem lại những mỹ cảm tốt. Do đó đối với những người sành chơi, thì các tranh dân gian Việt Nam vẫn là những tác phẩm vừa giản dị, mà lại mang những nét đẹp tinh tế.
Ngoài ra việc đóng khung tre cho những bức tranh dân gian Đông Hồ là một cách thức mới để họ có thể tìm được sự hoà hợp giữa cái truyền thống và khung cảnh của một phòng khách hiện đại. Còn các tranh Hàng Trống với dạng trục cuốn lại tạo nên sự sang trọng và quí phái vốn có. Mặc dầu vậy, tìm mua được một bức tranh Hàng Trống hiện nay để chơi Tết không phải là dễ. Dòng tranh Hàng Trống chỉ còn một nghệ nhân duy nhất là ông Lê Đình Nghiêm. Nhưng cái thú chơi tranh Tết của người Việt thì dường như vẫn tiếp tục được bồi đắp qua hàng thế hệ. Cái chân giá trị, cái tinh cái quí sẽ vẫn luôn được bảo tồn như thể truyền thống luôn chảy trong huyết quản của mỗi con người Việt Nam.
TRANG THANH HIỀN (SỐNG MỚI)

Thứ Bảy, 2 tháng 2, 2013

Phạm Duy - người khóc cười theo vận nước nổi trôi...



Ngay cả khi lạc bước, để rồi cuộc đời ông, lúc thăng, lúc giáng, lúc trong, lúc trầm, như những thang âm ngũ cung của xứ sở, ai bảo tâm hồn ông, không luôn hướng về quê hương, không day dứt và thiết tha với nước Việt khổ đau và can trường?
Ngày 27/1 mới đây, một thông tin khiến xã hội, những người vốn ái mộ âm nhạc của nhạc sĩ Phạm Duy chấn động: Ông đã trút hơi thở cuối cùng ở tuổi 93, để trở về miền xa vắng...
Hàng trăm bài báo, bài viết trên trang mạng xã hội thương tiếc ông, người nhạc sĩ tài danh, một trong những cây đại thụ của nền âm nhạc VN, cùng với Văn Cao, Trịnh Công Sơn, những tài năng đỉnh cao, đặc sắc và... quyến rũ đặc biệt người hâm mộ.
Một người nghệ sĩ tràn đầy năng lượng sống và sáng tạo. Một đời sống có đủ hỉ, nộ, ái, ố, có đủ tham, sân, si. Nó đem đến cho ông cả sự thi vị, sự phiêu lưu, đem đến cho ông, người nghệ sĩ quá đa tình, phóng túng, cả thú vị lẫn phiền toái, cả sự nổi tiếng và không ít...tai tiếng.
Vậy nhưng có lẽ, ông đã không chịu đựng nổi cái chết của người con trai cả, ca sĩ Duy Quang, vừa mất chưa trọn 49 ngày. Nỗi đau trong con tim người cha- người nhạc sĩ già, đã vỡ... Dù đời ông từng trải qua biết bao kiếp nổi trôi, hạnh ngộ cùng ly biệt.
Sinh ra trong một gia đình con nhà "nòi", cụ thân sinh ông là Phạm Duy Tốn, nhà văn xã hội tiên phong của nền văn học mới đầu thế kỷ XX, tác giả truyện ngắn khá nổi tiếng Sống chết mặc bay. Anh trai ông là Phạm Duy Khiêm, cựu Đại sứ VNCH tại Pháp, cũng là nhà văn, tác giả những cuốn Légendes des terres sereinesNam et SylvieDe Hanoi à Lacourtine...(*)
Nhưng cái chất con nhà "nòi" đó, phải đến Phạm Duy, mới đạt tới độ tích tụ và thăng hoa tột đỉnh.
Số phận con người, dù bé nhỏ đến đâu, cũng mang một phần lịch sử (**) Nhạc sĩ Phạm Duy cũng vậy, dù khởi đầu, có lẽ ông chưa ý thức được hết. Khi dấn thân vào con đường ca nhạc, sáng tác bản nhạc đầu tay (phổ nhạc bài thơ Cô hái mơcủa Nguyễn Bính), như một hứng khởi bản năng của một người tài trẻ tuổi.
Kiếp cầm ca rong ruổi nay đây mai đó ở một gánh hát, như một thứ định mệnh, cho ông mở tầm mắt về đất nước, nạp cho ông năng lượng sống, cảm thụ tràn đầy, mở mang hiểu biết. Cho ông gặp gỡ những tên tuổi nghệ sĩ lớn, đương thời. Đặc biệt là cho ông gặp gỡ Văn Cao, người bạn thân suốt cả một đời, dù lúc gần gũi, lúc cách xa bởi thời thế và sự chọn lựa, dẫn đến số phận trôi nổi rất khác nhau. Tri kỷ gặp tri kỷ, tri âm gặp tri âm.
Trong cả một cuộc đời gần trọn thế kỷ, có một "quãng tối"-một "quãng lặng" buồn nhất, kéo theo rất nhiều hệ lụy, hẳn khiến ông thao thức những đêm dài. Đó là những tháng năm theo kháng chiến, bồng bột, sôi nổi, đầy chất thị dân và nghệ sĩ, để rồi cuối cùng ông...lạc bước. Hay đó là sự chủ ý chọn lựa? Chỉ ông thấu hiểu mình nhất!
Ông đã phải "trả giá đắt" cho bước chân lạc nhịp, lạc điệu của mình. Dù âm nhạc của ông, là sự tinh tế, điệu nghệ của tâm thức dân ca, kết hợp tài tình, tài hoa với tân nhạc. Là tâm hồn thuần Việt hòa quyện với phong cách hiện đại, tây phương.
Thế nhưng, ngay cả khi lạc bước, để rồi cuộc đời ông, lúc thăng, lúc giáng, lúc trong, lúc trầm, như những thang âm ngũ cung của xứ sở, ai bảo tâm hồn ông, không luôn hướng về quê hương, không day dứt và thiết tha với nước Việt khổ đau và can trường? Dù xa quê, xa xứ, lúc sang Pháp học âm nhạc, lúc đưa cả gia đình sang Mỹ định cư- hành trình cuộc đời ông luôn chênh vênh, như giữa hai bờ xa cách. Hay đó cũng là sự cô đơn sâu thẳm trong thân phận...
Có lẽ vậy, mà vào chính những năm tháng bị coi là lạc bước, hai tác phẩm đỉnh cao Tình hoài hương, Tình ca ra đời. Hai tác phẩm nhưng đều chỉ nặng một chữ tình, đã làm khắc khoải biết bao con tim người Việt. Trong niềm nhớ, có niềm đau, trong xa cách, lại đầy gần gũi.
Quê hương tôi có con đê dài ngây ngất, lúc tan chợ chiều xa tắp, bóng nâu trên đường bước dồn, lửa bếp nồng, vòm tre non làn khói ấm hương thôn (Tình hoài hương).
Nhưng nhất là Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi, mẹ hiền ru những câu xa vời, à à ơi! tiếng ru muôn đời" (Tình ca).
Trước đó, là nhạc phẩm Gươm tráng sĩ, Chinh phụ ca, Thu chiến trường, Nhớ người ra đi, Tiếng hát sông Lô, Nương chiều...
Và sau này, là Ngày trở về, Người về, Tình nghèo, Thuyền viễn xứ, Viễn du..., nhất là hai trường ca gây tiếng vang: Con đường cái quan và Mẹ Việt Nam. Đặc biệt, là Minh họa Kiều, tác phẩm ông hoài thai nhiều nhất, sáng tác những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, như một cái kết có hậu cho hành trình sáng tạo không mệt mỏi của ông. Minh họa Kiều đã được biểu diễn tại Hà Nội, năm 2009. Và người viết bài cũng có cơ hội được thưởng thức, giữa khán phòng đông nghịt người hâm mộ, im phăng phắc.
Ông quả thực, đã khóc cười theo vận nước nổi trôi - bằng âm nhạc, bằng tài năng lớn của mình.
Hiếm có một nhạc sĩ Việt Nam nào, sở hữu cả một gia tài âm nhạc đồ sộ về số lượng- 1000 ca khúc, lại đa dạng về thể loại như ông: Từ Nhạc kháng chiến, đến Nhạc quê hương, Nhạc tình đôi lứa, Nhạc tâm tư. Từ Trường ca, đến Rong ca, Đạo ca, Thiền ca, Tâm ca, Tâm phẫn ca. Thậm chí cả...Tục ca, Vỉa hè ca, Tị nạn ca...
Một người hâm mộ, am hiểu và mê đắm nhạc ông đã phải viết, cần có cả một khoa nghiên cứu- Phạm Duy học. Điều đó quá đúng. Ông viết nhạc, nhưng lịch sử âm nhạc VN rồi đây sẽ phải viết kỹ lưỡng, đầy đủ về ông. Một tài danh âm nhạc hiếm có, với tất cả cái hay cái dở, cái trong cái đục, của một đời nghệ sĩ lớn, trong một thời đại nhiều giông bão, và cả lắm... nhiễu nhương, rất cần cái nhìn khách quan, khoa học và không định kiến.
Văn hóa, trong đó có âm nhạc không làm ra trực tiếp của cải vật chất cho xã hội, nhưng làm nên hồn cốt một dân tộc. Và nếu nhìn ở góc độ đó, ông- người nhạc sĩ tài danh và đặc sắc của nước Việt, thường chỉ tự nhận là kẻ hát rong của thếkỷ, đã góp phần không nhỏ, làm nên hồn cốt, tâm thức người Việt.
Và cho dù, có ấm nồng miền viễn xứ, thì nước Việt, cuối cùng vẫn là sự chọn lựa của người nhạc sĩ đa tài và đa tình. Những bản nhạc bất hủ của ông, từ lâu đã là sợi nhau nối ông với xứ sở ruột rà, nơi ông có bao yêu thương, cay đắng, có vinh quanh và cả bẽ bàng. Nhưng ông vẫn yêu và xin tạ lỗi. Tạ lỗi với xứ sở, và với những người đàn bà ông gặp trên đường đời...
Còn nhân dân, bao giờ cũng là vị giám khảo công bằng, công tâm với âm nhạc của ông.
Những ngày này, gia đình nghệ sĩ của ông, những người ái mộ ông, ái mộ âm nhạc Phạm Duy đau đớn, thương tiếc tiễn đưa ông. Nhưng biết đâu, ông lại mỉm cười. Vì như ông từng nói: Ca sĩ còn hát nhạc của tôi nghĩa là tôi còn sống. Và cũng vì nơi chín suối, ông được gặp người con trai cả Duy Quang, được gặp người vợ tào khang, yêu dấu và cũng từng bao đau khổ, vì ông?
Đó mới là sự hạnh ngộ vĩnh viễn của kiếp người?
KỲ DUYÊN (TUẦN VIỆT NAM)

Avram Noam Chomsky - ông là ai?



Theo cuộc bầu chọn những người trí tuệ trên thế giới do tạp chí Prospect của Anh thực hiện, Noam Chomsky là “người có trí tuệ nhất thế giới”. Vậy Noam Chomsky là ai?
Đôi dòng tiểu sử
Avram Noam Chomsky sinh ra trong một gia đình trí thức Nga gốc Do Thái. Ông sinh ngày 07.12.1928, tại East Oak Lane, vùng ngoại ô Philadelphia, bang Pennsylvania. Cha ông là William Chomsky, trốn quân dịch Sa hoàng và di cư khỏi Nga năm 1913, là một học giả tiếng Hebrew. Mẹ ông Elsie Chomsky (tên thời con gái là Simonofsky) cũng gốc Nga nhưng sinh ra và lớn lên ở Mỹ, nói tiếng Anh giọng New York. Tiếng mẹ đẻ của bố mẹ ông là Yiddish, nhưng trong gia đình lại không dùng thứ tiếng này. Noam trong tiếng Hebrew có nghĩa là “hài lòng”.
Sau khi tốt nghiệp trung học năm 1945, Chomsky học hành khá lang bang tại đại học Philadelphia. Đầu tiên ông quan tâm tới tình hình chính trị ở Trung Đông hơn cả việc học đại học. Ông từng có ý định thôi học để đi Palestine. Tìm cách khuyên can con, cha ông giới thiệu với Zellig Harris lúc đó cũng rất quan tâm tới chính trị. Thế là chàng thanh niên Chomsky quyết định ở lại Philadelphia học ngôn ngữ học với Z. Harris. Quan điểm chính trị của Z. Harris đã ảnh hưởng sâu đậm tới quan điểm của N. Chomsky sau này.
Năm 1949, Chomsky kết hôn với nhà ngôn ngữ học Carol Schattz. Họ có 3 con, hai gái, Aviva (sinh 1957) và Diane (sinh 1960) và một trai, Harry (sinh 1967).
Đóng góp ngôn ngữ học
Trong quá trình nghiên cứu “Phương pháp ngôn ngữ học cấu trúc” của Harris (x. Harris, 1951) ông đã tìm ra phương pháp hình thức hóa chúng một cách triệt để. Từ 1955, ông đã hoàn thành công trình Cấu trúc lô gích của lý thuyết ngôn ngữ dày trên 900 trang [A, 1975a]. Chương Phương pháp phân tích biến đổi của sách này được đệ trình làm luận án tiến sĩ. Phương pháp biến đổi của N. Chomsky khác với phương pháp biến đổi của Z. Harris ở điểm căn bản sau: Quy tắc biến đổi của Harris là hai chiều, nghĩa là nếu cấu trúc A biến đổi thành cấu trúc B thì B cũng biến đổi thành A ( A « B). Với Chomsky chỉ có biến đổi một chiều. Ông đỗ tiến sĩ nhưng bị đánh giá khá xoàng. Một giáo sư phản biện viết: ‘Tôi không biết luận án này thuộc lĩnh vực gì, nhưng chắc chắn đây không phải là ngôn ngữ học’. Thế là trong một hai năm tiếp theo, các tòa soạn và nhà xuất bản trả lại bản thảo luận án và các bài báo của ông. Dù sao, nhờ M. Halle và R. Jacobson mà Chomsky được một chân dạy tiếng Pháp và tiếng Đức cho cán bộ khoa học-kỹ thuật ở học viện MIT (Massachusetts Institute of Technology). Năm 1961 ông được phong giáo sư Khoa ngôn ngữ hiện đại và ngôn ngữ học (nay là Khoa ngôn ngữ học và triết học). Ông đã dạy ở MIT suốt hơn nửa thế kỷ qua.
Năm 1957 nhà xuất bản Mouton ở Hà Lan in cho ông quyển Syntactic Structures. Robert Lees, một học trò của ông, đã viết một bài dài hơn 30 trang giới thiệu và bình luận quyển sách này trên tạp chí Language (1960). Nhờ đó thế giới biết tới ông. Cho đến nay, đây vẫn là công trình được nhiều người biết nhất của N. Chomsky. Trong sách này có một câu rất nổi tiếng minh họa cho quan niệm về ‘tính ngữ pháp’ của ông: Colorless green ideas sleep furiously (những tư tưởng xanh lục không màu đang ngủ một cách giận dữ), một câu vô nghĩa chỉ có thể xuất hiện trong một bài thơ siêu thực vẫn có thể có tính ngữ pháp.
Ngữ pháp tạo sinh
Cách tiếp cận cú pháp của N. Chomsky, thường mang tên ngữ pháp tạo sinh – GG (generative grammar), mặc dù rất phổ biến ở Mỹ và một chừng mực nào đó ở Pháp nhưng lại khó khăn với những nhà nghiên cứu ở ngoài Mỹ bởi lẽ cách phân tích cú pháp đó rất trừu tượng. Nó dựa trên những nghiên cứu công phu về ranh giới giữa những cấu trúc ngữ pháp và phi ngữ pháp trong một ngôn ngữ. Những nghiên cứu này, như N. Chomsky từng nói, dựa trên những quan sát kỹ lưỡng một số lượng khổng lồ các ngôn ngữ thuộc những loại hình khác nhau suốt từ 1949 đến nay. Những phán xét về tính ngữ pháp chỉ có thể thực hiện một cách chính xác bởi những người bản ngữ. Vì những lý do ngữ dụng các nhà ngôn ngữ học thường nhấn mạnh tới tiếng mẹ đẻ của họ hay ngôn ngữ mà họ chịu ảnh hưởng, như Anh, Pháp, Đức, Đan Mạch, Ý, Nhật, Trung Quốc… khi giải thích và phát triển lý thuyết này.
Đôi khi những phân tích của GG không thành công ở ngôn ngữ mà trước đó chưa được nghiên cứu. Khi số lượng các ngôn ngữ được khảo sát tăng lên cũng dẫn tới nhiều thay đổi của GG và sự khẳng định về tính phổ quát ngôn ngữ học đã trở nên vững chắc hơn nhiều.
Về phổ quát ngôn ngữ, Joseph Greenberg nổi tiếng với công trình được nghiên cứu công phu qua rất nhiều ngôn ngữ trên thế giới. Các ngôn ngữ được phân loại theo những loại hình khác nhau, trong đó có loại hình về trật tự từ. [Greenberg, 1966] Cách tiếp cận của N. Chomsky lại theo hướng đưa ra giả thuyết bẩm sinh ngôn ngữ. Trẻ em được giả định là có năng lực bẩm sinh (innate knowledge) về những cấu trúc ngữ pháp cơ bản chung cho các ngôn ngữ tự nhiên. Tức là, ngôn ngữ nào cũng chứa đựng một số hữu hạn những thành tố giống nhau. Tri thức bẩm sinh này thường mang tên ngữ pháp phổ quát. Đó là một ngữ pháp hình thức có “tính tạo sinh” (productivity): Với một tập hữu hạn các quy tắc ngữ pháp và một tập hữu hạn các từ ngữ, con người có thể tạo ra vô hạn các câu, kể cả các câu mà chưa bao giờ họ nói hoặc nghe thấy.
Cơ chế này được những người bản ngữ kiểm chứng qua thời gian, từ 1949 đến nay. Số lượng ngôn ngữ được kiểm chứng tăng lên rất nhiều. Có những bất ngờ. Một trong những ví dụ thú vị là về trật tự từ. Vào thập niên 90 thế kỷ trước, Richard Kayne, một nhà nghiên cứu nổi tiếng theo trường phái Chomsky đã chứng minh rằng tất cả các ngôn ngữ đều có cấu trúc chìm (underlying structure) theo trật tự S – V – O [ Kayne, 1994], một điều không chấp nhận được vào thập niên 60 thế kỷ trước. Đến nay, giới ngôn ngữ học Việt Nam cũng vẫn bất ngờ với kết luận này.
Năm 1979 N. Chomsky trình bày tại Hội nghị ngôn ngữ học thế giới GLOW (Generative Linguistics in the Old World ) diễn ra ở Đại học Sư phạm Pisa (Ý) cách tiếp cận P&P về ngôn ngữ (The Principles and Parameters approach – những nguyên lý và tham biến), báo cáo này thường mang tên The Pisa Lectures, sau này được gọi là lý thuyết G&B (Chi phối và Gắn kết - Government and Binding theory) [1981]. Trong những năm cuối thập niên 60 thế kỷ XX, một số quy tắc trong lý thuyết chuẩn (Standard Theory - tên gọi cho công trình Aspects of the Theory of Syntax, 1965) không giải thích được một số vấn đề ngữ nghĩa nên đã được điều chỉnh lại và mang tên lý thuyết chuẩn mở rộng (Extended Standard Theory). Tiếp đến, đầu thập kỷ 70 với một số điều chỉnh mang tên ‘phạm trù rỗng’ (empty categories), lý thuyết ‘thanh chắn – X’ (X-bar theory), ‘cấu trúc chìm và cấu trúc nổi’ (D- and S-structures) , và những điều kiện biểu hiện như ‘bộ lọc Cách’ (Case filter) lại dẫn đến lý thuyết chuẩn mở rộng nhìn lại (Revised Extended Standard Theory) làm cho mô hình ngữ pháp trở nên đơn giản hơn rất nhiều. Lý thuyết Chi phối và Gắn kết đã điều chỉnh về cơ bản lý thuyết ngôn ngữ học tạo sinh trước đó, là bước tiếp theo của N. Chomsky hướng tới một ngữ pháp phổ quát (Universal Grammar).
Năm 1993 N. Chomsky có bài "A minimalist program for linguistic theory" in trong The view from Building 20: Essays in linguistics in honor of Sylvain Bromberger [MIT Press, p. 1-52]. Sau xuất bản thành sách The Minimalist Program [1995]. Đây là điều chỉnh cuối cùng về ngữ pháp phổ quát của Chomsky: Chương trình MP nhằm phát triển lý thuyết ngữ pháp chứ không phải là một lý thuyết. MP đưa ra một cách tiếp cận tối thiểu với những công cụ mang tính kỹ thuật cho những nguyên lý và tham biến được phát triển trong thập kỷ 80, cách tiếp cận gợi ý rằng tồn tại một tập cố định những nguyên lý có giá trị với mọi ngôn ngữ cho phép tác động tới một tập hợp hữu hạn những nút bấm lưỡng phân (t.l. những tham biến) là có thể miêu tả được những tính chất đặc trưng cho hệ thống ngôn ngữ mà trẻ em có được.
Trong MP, Chomsky đưa ra hai luận điểm cơ bản. Sự tiết kiệm trong quá trình tạo câu (derivation) và sự tiết kiệm trong quá trình biểu hiện câu (representation). Ở đây có hàng loạt cách tân mang tính kỹ thuật trong tiếp cận ngữ pháp.
- Ông khái quát hóa lý thuyết thanh chắn – X thành khái niệm BPS – cấu trúc cú đoạn chủ yếu (Bare Phrase Structure) ở 4 điểm quan trọng: a) Câu được phái sinh tường minh, biểu hiện từ dưới - lên chứ không từ trên - xuống như trong lý thuyết thanh chắn – X. b)Cấu trúc câu là không được nhận biết trước. c) Chỉ có hiện tượng rẽ nhánh lưỡng phân chứ không chấp nhận cả rẽ nhánh đơn phân (unary branching) như ở lý thuyết thanh chắn –X. d) Không phân biệt điểm đầu (head) và điểm cuối (terminal) như có trong lý thuyết thanh chắn – X. Trong BPS có hai tác tử cơ bản: Merge là tác tử ánh xạ lên hai đối tượng (khi hai từ đứng cạnh nhau thì tạo ra nghĩa mới như thế nào), và Move là tác tử khiến một từ chuyển dịch từ chủ thể-đối tượng này sang chủ thể-đối tượng khác.
- Đơn giản hóa hai mức độ biểu hiện trong mô hình ngữ pháp bằng cách loại đi sự phân biệt giữa cấu trúc chìm và cấu trúc nổi bằng cách tiếp cận phái sinh tường minh hơn.
- Loại bỏ khái niệm chi phối (government)
- Đưa vào một điểm đơn, gọi là Spell-Out, về tương tác cú pháp trong nói năng.
- Sự phái sinh cú pháp được thực hiện một cách rõ ràng qua những trạng thái được gọi là phases.
Đóng góp tâm lý học
Những công trình ngôn ngữ học của N. Chomsky đã ảnh hưởng rất lớn tới tâm lý học và những hướng phát triển cơ bản của nó trong thế kỷ 20. Lý thuyết về ngữ pháp phổ quát của ông và một hệ luận của nó là vấn đề trẻ em học ngôn ngữ như thế nào, được xem là thách đố trực tiếp với những lý thuyết hành vi luận đã biết. Nhiều nguyên lý cơ bản của Chomsky đã được một số trung tâm tâm lý học chấp nhận.
Năm 1959, N. Chomsky viết bài “B.F. Skinner's Verbal Behavior” bình luận về cuốn sách Verbal Behavior của B.F.Skinner. Bài này đã tấn công mạnh mẽ vào khái niệm cơ bản ‘tâm lý hành vi’ của B.F.Skinner. Bài này được nhìn nhận là một cột mốc cho cuộc ‘cách mạng tri nhận’, làm nên sự thay đổi tận gốc rễ tâm lý học Mỹ từ thập kỷ 50 tới thập kỷ 70 thế kỷ trước, từ hành vi nguyên thủy tới tri nhận nguyên thủy. Và N. Chomsky được coi là một trong những người tiên phong trong cuộc cách mạng tâm lý học theo hướng nghiên cứu tâm lý học tri nhận.
Trong Cartesian Linguistics [1966 ] và những bài viết sau đó, sự trình bày về năng lực ngôn ngữ của con người đã trở thành khuôn mẫu cho một số khảo cứu trong lĩnh vực tâm lý học. Nhiều khái niệm tâm lý học hiện nay về trí não hoạt động như thế nào bắt nguồn trực tiếp từ đây. Ba điểm then chốt là: Một, trí não (the mind) là ‘tri nhận’, hay là con đường chung để hiểu trí não là thừa nhận rằng chúng chứa đựng những đối tượng như niềm tin, sự ngờ vực, và những trạng thái tinh thần (mental) vô thức khác. Hai, phần lớn những điều mà trí não một người trưởng thành có được là ‘bẩm sinh’. Trong khi không một đứa trẻ nào sinh ra có thể nói được một ngôn ngữ thì chúng có đầy đủ mọi khả năng học nhanh chóng nhiều ngôn ngữ ở giai đoạn đầu đời. Điều này được các nhà tâm lý học mở rộng ra ngoài địa hạt ngôn ngữ. Ba, Chomsky đưa ra khái niệm ‘modularity’ (tính cấu thành bộ phận) về trí não: Trí não gồm các hợp thành bộ phận, có những tập con với các dòng hữu hạn tương tác thông tin nội bộ (inter-communication). Điều này hoàn toàn đối lập với quan điểm cũ là bất kỳ mảng thông tin nào trong trí não cũng được ghi nhận qua một quá trình tri nhận khác.
Quan điểm và hoạt động chính trị – N. Chomsky và Việt Nam
N. Chomsky là gương mặt nổi bật nhất của những nhà chính trị Mỹ cấp tiến. Trong Từ điển các nhà triết học Mỹ hiện đại[Trd, 2009], N. Chomsky được coi là “một trong những người phê bình cánh tả có ảnh hưởng nhất tới chính sách ngoại giao Mỹ” Ông tham gia nhiều hoạt động chính trị và viết rất nhiều sách, nhiều bài trên các tạp chí về vấn đề này. Ông là ủy viên hội đồng (Senior Scholar) của Viện nghiên cứu chính trị (Institute for Policy Studies). Vài năm trước đây, trong một cuộc bình chọn 11 người xứng đáng đứng đầu một nhà nước toàn cầu (global government), ông được xếp hạng 4, sau Nelson Mandela, Bill Clinton và Đạt-lai Lạt-ma. Ông nổi tiếng thế giới về những quan điểm chính trị. Những phê bình liên tục và vang dội của ông có ảnh hưởng to lớn tới chính sách đối ngoại của Mỹ. Những người đứng đầu chính quyền Mỹ coi ông là một gương mặt phản kháng. Thậm chí N. Chomsky từng bị nhận những lời đe dọa tính mạng vì phê phán chính sách đối ngoại của Mỹ. Ông quan tâm tới nhiều lĩnh vực khác nhau: chủ nghĩa khủng bố, vấn đề toàn cầu hóa, chủ nghĩa xã hội, truyền thông đại chúng, vấn đề Trung Đông, phê bình giới trí thức, nhất là trí thức Mỹ và Pháp.
Đặc biệt, N. Chomsky là người đứng đầu phản kháng cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam với tập tiểu luận nổi tiếng “Trách nhiệm của người trí thức” [B,1967]. Ông đã từng tham gia biểu tình tuần hành chống chiến tranh ở Việt Nam. Mùa xuân 1972, N. Chomsky trình bày về nguồn gốc cuộc chiến tranh ở Việt Nam trước Ủy ban quan hệ đối ngoại của Thượng viện Mỹ do J. William Fulbright là chủ tịch. Ngày 10.4.1970, Noam Chomsky trong đoàn đại biểu trí thức Mỹ 3 người sang thăm Việt Nam. Lúc đó tên ông được báo Nhân Dân phiên là “Nô-am Trom-xki”. Trong bài phát biểu trên Đài Tiếng nói Việt Nam ngày 13.4.1970, N. Chomsky nói ông ‘kính trọng nhân dân Việt Nam đã có thể bảo vệ mình, chống lại cuộc tấn công tàn bạo, đồng thời có những thành quả lớn lao trong việc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa’. Ông đã gặp gỡ, trao đổi với tổng bí thư Lê Duẩn , bày tỏ ủng hộ đường lối chính trị của Việt Nam. Ông trình bày lý thuyết ngôn ngữ học của mình tại Đại học Tổng hợp Hà Nội. Có giai thoại sau: Người phiên dịch tiếng Anh rất lúng túng, không dịch được những điều ông nói. Một ông già lững thững đi từ phía dưới lên dịch thay. Chomsky chắc ông này dịch chính xác vì mỗi khi nói xong ông ấy dịch ngay rất lưu loát, lại nghe những tiếng ồ, à tán thưởng. Chomsky rất bất ngờ vì lúc đó ở Việt Nam đã có người hiểu ông đến như vậy. Sau đó càng bất ngờ hơn khi Chomsky biết “ông già” này là bộ trưởng Bộ Đại học Tạ Quang Bửu.
Phương pháp tiếp cận khoa học – Ảnh hưởng của N. Chomsky
Chomsky coi khoa học là những nghiên cứu giải thích. Ông bác bỏ quan điểm phân loại luận trong khoa học, nghĩa là nghiên cứu khoa học không phải là lập ra một danh sách phân loại những sự kiện hay là những giải thích chúng theo một cơ cấu máy móc. [Năm 1942, nhà ngôn ngữ học theo trường phái cấu trúc cổ điển Charles F. Hockett (1916 – 2000) từng viết rằng ‘ngôn ngữ học là khoa học phân loại’].
Ông coi một số những phê bình của những người được gọi là hậu-cấu trúc hay hậu hiện đại là không có ý nghĩa gì. Ông lấy làm thất vọng khi đọc những công trình mù mờ, rối rắm của trường phái hậu-cấu trúc hoặc hậu hiện đại đến nỗi ‘mắt đờ đẫn ra’ (my eyes glaze over). Điều này không giống với những chứng minh rắc rối, phức tạp trong toán học hay vật lý. Ông không hiểu chi tiết nhưng tin những chứng minh đó đúng và nhà khoa học có thể giải thích để ông hiểu cốt lõi của vấn đề là gì. Theo ông, điều quan trọng đối với một công trình khoa học là luận giải tường minh. Khoa học nói về những điều rất đơn giản và đặt ra những câu hỏi hóc búa chưa có những câu trả lời thỏa đáng. Theo ông, nhiều công trình khoa học chỉ mới nắm bắt được những điều ngoài rìa, chưa đi vào bản chất sự kiện. Phần lớn những công trình khoa học của ông là những giả thuyết.
Chomsky đã có ảnh hưởng rất lớn đến khuynh hướng ngôn ngữ học thế giới nửa cuối thế kỷ 20. John Searle đã từng viết bài “Cuộc cách mạng trong ngôn ngữ học của N. Chomsky”( Chomsky's Revolution in Linguistics, trên The New York Review of Books, số ngày 29.6. 1972) dài gần 11.300 từ đánh giá những cống hiến vĩ đại và tầm ảnh hưởng to lớn của Chomsky về ngôn ngữ học và tâm lý học.
Tiếng Anh có từ chomskyan, có nghĩa là những người theo trường phái ngôn ngữ học Chomsky. Nhưng Chomsky lại không ưa thuật ngữ này.
Những mô hình Chomsky đã trở thành cơ sở lý thuyết cho hàng loạt lĩnh vực khác nhau.
Chỉ với một bài Ba mô hình miêu tả ngôn ngữ [A,1956], N. Chomsky đã để lại dấu ấn sâu sắc và được coi là giáo trình nền tảng trong lĩnh vực khoa học máy tính vì đã cung cấp những kiểu ngôn ngữ hình thức khác nhau . Bài này đề cập tới 3 loại ngôn ngữ hình thức khác nhau được phân theo tầng bậc để miêu tả ngôn ngữ tự nhiên, cấp độ sau miêu tả mạnh hơn và bao chứa cấp độ trước. Đó là: 1) Ngữ pháp các trạng thái hữu hạn. Mô hình này được xây dựng theo lý thuyết ôtômát hữu hạn trạng thái của nhà toán học Nga A. Markov; 2) Ngữ pháp các thành tố trực tiếp , còn gọi là ngữ pháp cấu trúc cú đoạn (phrase structure grammar); Mô hình này xây dựng các quy tắc viết lại theo phương pháp suy luận của Post trong lý thuyết ôtômát. 3) Ngữ pháp biến đổi (transformational grammar), về sau được gọi là ngữ pháp tạo sinh. Chính N. Chomsky đã lưu ý, một số phương diện của ngôn ngữ tự nhiên đòi hỏi những mô hình ngôn ngữ phức tạp hơn. Ở Việt Nam, ba mô hình này đã được Nguyễn Đức Dân giới thiệu [NĐD, 1977].
Donald Knuth, một chuyên gia lừng danh về khoa học máy tính, tiết lộ: Năm 1961, khi hưởng tuần trăng mật ông đọc quyển Syntactic Strctures. Chính lý thuyết toán học về các ngôn ngữ nảy ra hàng loạt điều trực cảm tuyệt vời giúp ông viết ra những chương trình máy tính.
Sự phân tầng ngôn ngữ này cũng được các nhà toán học tổ hợp quan tâm.
Cũng từ sự phân tầng này đã nảy sinh một số luận điểm trong cuộc cách mạng tâm lý học.
Niels K. Jerne, nhận giải Nobel Y học 1984, đã dùng mô hình tạo sinh của N. Chomsky để giải thích hệ thống miễn dịch của con người. Theo ông, có một ‘ngữ pháp tạo sinh của hệ miễn dịch’: các bộ phận hợp thành của ngữ pháp tạo sinh … được coi như những đặc trưng khác nhau trong cấu trúc protein.
Ở Đại học Columbia , khi nghiên cứu sự tiếp nhận ngôn ngữ loài vật của con tinh tinh (chimpazee) người ta thấy rằng năng lực ngôn ngữ bẩm sinh chỉ có ở loài người. Họ bèn lấy tên N. Chomsky để đặt cho hiện tượng này: Nim Chimpsky
Một điểm nhấn trong những công trình về chính trị của N. Chomsky là phân tích xu hướng chủ đạo trong lĩnh vực truyền thông đại chúng, đặc biệt là ở Mỹ, về cấu trúc, về những ràng buộc và sự tiếp nhận chúng trong vai trò biện hộ cho những đại doanh nghiệp và lợi ích của chính quyền. Công trình cộng tác với Edward S. Herman Manufacturing Consent: The Political Economy of the Mass Media [B,1988, 2002] đã gây tiếng vang lớn. Ở đó đã phân tích sâu sắc và được minh họa qua hàng loạt ví dụ về ‘mô hình tuyên truyền’ (propaganda model) với 5 ‘bộ lọc’ (five ‘filters’) gây ra xu hướng tiếp nhận sai lệch nhằm tạo sự đồng thuận qua những tin tức truyền thông. Có những dẫn chứng hùng hồn cho mô hình này trong việc báo chí đưa tin về Cuộc tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 của chúng ta (báo chí Mỹ gọi là Tet Offensive).
N. Chomsky là người luôn luôn bảo vệ mạnh mẽ quan điểm khoa học của mình. Ông từng có các cuộc tranh luận về ngôn ngữ học, về triết học, về tâm lý học và về chính trị với nhiều nhà học giả, như Jean Piaget, Michel Foucault, William F. Buckley, Christopher Hitchens [6 cuộc]; George Lakoff, Richard Perle, Hilary Putnam, Willard Quine; Alan Dershovitz.
Theo ĐH KHXHVNV