- Đăng ngày Thứ bảy, 02 Tháng 2 2013 09:59
Ngay cả khi lạc bước, để rồi cuộc đời ông, lúc thăng, lúc giáng, lúc trong, lúc trầm, như những thang âm ngũ cung của xứ sở, ai bảo tâm hồn ông, không luôn hướng về quê hương, không day dứt và thiết tha với nước Việt khổ đau và can trường?
Ngày 27/1 mới đây, một thông tin khiến xã hội, những người vốn ái mộ âm nhạc của nhạc sĩ Phạm Duy chấn động: Ông đã trút hơi thở cuối cùng ở tuổi 93, để trở về miền xa vắng...
Hàng trăm bài báo, bài viết trên trang mạng xã hội thương tiếc ông, người nhạc sĩ tài danh, một trong những cây đại thụ của nền âm nhạc VN, cùng với Văn Cao, Trịnh Công Sơn, những tài năng đỉnh cao, đặc sắc và... quyến rũ đặc biệt người hâm mộ.
Một người nghệ sĩ tràn đầy năng lượng sống và sáng tạo. Một đời sống có đủ hỉ, nộ, ái, ố, có đủ tham, sân, si. Nó đem đến cho ông cả sự thi vị, sự phiêu lưu, đem đến cho ông, người nghệ sĩ quá đa tình, phóng túng, cả thú vị lẫn phiền toái, cả sự nổi tiếng và không ít...tai tiếng.
Vậy nhưng có lẽ, ông đã không chịu đựng nổi cái chết của người con trai cả, ca sĩ Duy Quang, vừa mất chưa trọn 49 ngày. Nỗi đau trong con tim người cha- người nhạc sĩ già, đã vỡ... Dù đời ông từng trải qua biết bao kiếp nổi trôi, hạnh ngộ cùng ly biệt.
Sinh ra trong một gia đình con nhà "nòi", cụ thân sinh ông là Phạm Duy Tốn, nhà văn xã hội tiên phong của nền văn học mới đầu thế kỷ XX, tác giả truyện ngắn khá nổi tiếng Sống chết mặc bay. Anh trai ông là Phạm Duy Khiêm, cựu Đại sứ VNCH tại Pháp, cũng là nhà văn, tác giả những cuốn Légendes des terres sereines, Nam et Sylvie, De Hanoi à Lacourtine...(*)
Nhưng cái chất con nhà "nòi" đó, phải đến Phạm Duy, mới đạt tới độ tích tụ và thăng hoa tột đỉnh.
Số phận con người, dù bé nhỏ đến đâu, cũng mang một phần lịch sử (**) Nhạc sĩ Phạm Duy cũng vậy, dù khởi đầu, có lẽ ông chưa ý thức được hết. Khi dấn thân vào con đường ca nhạc, sáng tác bản nhạc đầu tay (phổ nhạc bài thơ Cô hái mơcủa Nguyễn Bính), như một hứng khởi bản năng của một người tài trẻ tuổi.
Kiếp cầm ca rong ruổi nay đây mai đó ở một gánh hát, như một thứ định mệnh, cho ông mở tầm mắt về đất nước, nạp cho ông năng lượng sống, cảm thụ tràn đầy, mở mang hiểu biết. Cho ông gặp gỡ những tên tuổi nghệ sĩ lớn, đương thời. Đặc biệt là cho ông gặp gỡ Văn Cao, người bạn thân suốt cả một đời, dù lúc gần gũi, lúc cách xa bởi thời thế và sự chọn lựa, dẫn đến số phận trôi nổi rất khác nhau. Tri kỷ gặp tri kỷ, tri âm gặp tri âm.
Trong cả một cuộc đời gần trọn thế kỷ, có một "quãng tối"-một "quãng lặng" buồn nhất, kéo theo rất nhiều hệ lụy, hẳn khiến ông thao thức những đêm dài. Đó là những tháng năm theo kháng chiến, bồng bột, sôi nổi, đầy chất thị dân và nghệ sĩ, để rồi cuối cùng ông...lạc bước. Hay đó là sự chủ ý chọn lựa? Chỉ ông thấu hiểu mình nhất!
Ông đã phải "trả giá đắt" cho bước chân lạc nhịp, lạc điệu của mình. Dù âm nhạc của ông, là sự tinh tế, điệu nghệ của tâm thức dân ca, kết hợp tài tình, tài hoa với tân nhạc. Là tâm hồn thuần Việt hòa quyện với phong cách hiện đại, tây phương.
Thế nhưng, ngay cả khi lạc bước, để rồi cuộc đời ông, lúc thăng, lúc giáng, lúc trong, lúc trầm, như những thang âm ngũ cung của xứ sở, ai bảo tâm hồn ông, không luôn hướng về quê hương, không day dứt và thiết tha với nước Việt khổ đau và can trường? Dù xa quê, xa xứ, lúc sang Pháp học âm nhạc, lúc đưa cả gia đình sang Mỹ định cư- hành trình cuộc đời ông luôn chênh vênh, như giữa hai bờ xa cách. Hay đó cũng là sự cô đơn sâu thẳm trong thân phận...
Có lẽ vậy, mà vào chính những năm tháng bị coi là lạc bước, hai tác phẩm đỉnh cao Tình hoài hương, Tình ca ra đời. Hai tác phẩm nhưng đều chỉ nặng một chữ tình, đã làm khắc khoải biết bao con tim người Việt. Trong niềm nhớ, có niềm đau, trong xa cách, lại đầy gần gũi.
Quê hương tôi có con đê dài ngây ngất, lúc tan chợ chiều xa tắp, bóng nâu trên đường bước dồn, lửa bếp nồng, vòm tre non làn khói ấm hương thôn (Tình hoài hương).
Nhưng nhất là Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi, mẹ hiền ru những câu xa vời, à à ơi! tiếng ru muôn đời" (Tình ca).
Trước đó, là nhạc phẩm Gươm tráng sĩ, Chinh phụ ca, Thu chiến trường, Nhớ người ra đi, Tiếng hát sông Lô, Nương chiều...
Và sau này, là Ngày trở về, Người về, Tình nghèo, Thuyền viễn xứ, Viễn du..., nhất là hai trường ca gây tiếng vang: Con đường cái quan và Mẹ Việt Nam. Đặc biệt, là Minh họa Kiều, tác phẩm ông hoài thai nhiều nhất, sáng tác những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, như một cái kết có hậu cho hành trình sáng tạo không mệt mỏi của ông. Minh họa Kiều đã được biểu diễn tại Hà Nội, năm 2009. Và người viết bài cũng có cơ hội được thưởng thức, giữa khán phòng đông nghịt người hâm mộ, im phăng phắc.
Ông quả thực, đã khóc cười theo vận nước nổi trôi - bằng âm nhạc, bằng tài năng lớn của mình.
Hiếm có một nhạc sĩ Việt Nam nào, sở hữu cả một gia tài âm nhạc đồ sộ về số lượng- 1000 ca khúc, lại đa dạng về thể loại như ông: Từ Nhạc kháng chiến, đến Nhạc quê hương, Nhạc tình đôi lứa, Nhạc tâm tư. Từ Trường ca, đến Rong ca, Đạo ca, Thiền ca, Tâm ca, Tâm phẫn ca. Thậm chí cả...Tục ca, Vỉa hè ca, Tị nạn ca...
Một người hâm mộ, am hiểu và mê đắm nhạc ông đã phải viết, cần có cả một khoa nghiên cứu- Phạm Duy học. Điều đó quá đúng. Ông viết nhạc, nhưng lịch sử âm nhạc VN rồi đây sẽ phải viết kỹ lưỡng, đầy đủ về ông. Một tài danh âm nhạc hiếm có, với tất cả cái hay cái dở, cái trong cái đục, của một đời nghệ sĩ lớn, trong một thời đại nhiều giông bão, và cả lắm... nhiễu nhương, rất cần cái nhìn khách quan, khoa học và không định kiến.
Văn hóa, trong đó có âm nhạc không làm ra trực tiếp của cải vật chất cho xã hội, nhưng làm nên hồn cốt một dân tộc. Và nếu nhìn ở góc độ đó, ông- người nhạc sĩ tài danh và đặc sắc của nước Việt, thường chỉ tự nhận là kẻ hát rong của thếkỷ, đã góp phần không nhỏ, làm nên hồn cốt, tâm thức người Việt.
Và cho dù, có ấm nồng miền viễn xứ, thì nước Việt, cuối cùng vẫn là sự chọn lựa của người nhạc sĩ đa tài và đa tình. Những bản nhạc bất hủ của ông, từ lâu đã là sợi nhau nối ông với xứ sở ruột rà, nơi ông có bao yêu thương, cay đắng, có vinh quanh và cả bẽ bàng. Nhưng ông vẫn yêu và xin tạ lỗi. Tạ lỗi với xứ sở, và với những người đàn bà ông gặp trên đường đời...
Còn nhân dân, bao giờ cũng là vị giám khảo công bằng, công tâm với âm nhạc của ông.
Những ngày này, gia đình nghệ sĩ của ông, những người ái mộ ông, ái mộ âm nhạc Phạm Duy đau đớn, thương tiếc tiễn đưa ông. Nhưng biết đâu, ông lại mỉm cười. Vì như ông từng nói: Ca sĩ còn hát nhạc của tôi nghĩa là tôi còn sống. Và cũng vì nơi chín suối, ông được gặp người con trai cả Duy Quang, được gặp người vợ tào khang, yêu dấu và cũng từng bao đau khổ, vì ông?
Đó mới là sự hạnh ngộ vĩnh viễn của kiếp người?
KỲ DUYÊN (TUẦN VIỆT NAM)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét