CHUYỆN TIẾNG VIỆT: ĐỪNG VỘI VÀNG
(Trao đổi với tác giả Hoàng Hồng Minh)
ThS. Đào Tiến Thi
(NXB Giáo dục Việt Nam )
Trong bài Chuyện viết
tiếng Việt của tác giả Hoàng Hồng Minh
(HHM) trên tạp chí Tia sáng ngày 16-08-2011[i],
ngoài việc đặt ra vấn đề nên đưa thêm mấy chữ cái (ký tự) F, J, W, Z vào bảng
chữ cái tiếng Việt hay không (điều mà dư luận có ồn lên khoảng tháng nay), tác
giả còn bàn thêm hai vấn đề của tiếng Việt: viết tên riêng nước ngoài và viết các từ ghép, từ láy (HHM gọi chung
là “từ kép”) trong tiếng Việt.
Tôi xin được trao đổi một số ý kiến với tác giả. Vì không rõ
tác giả là ông hay bà, tuổi tác thế
nào nên xin được tạm gọi là bạn, mong tác giả
thông cảm.
1. Vấn đề thêm các chữ F, J, W, Z vào bảng chữ cái tiếng
Việt
HHM đưa ra một số dẫn chứng về sự có mặt của các chữ cái F,
J, W, Z trong văn bản tiếng Việt, ví dụ nói lợn F1; từ A đến Z. Không ai phủ nhận điều đó. Tôi có thể
bổ sung thêm hiện tượng trên một cách phong phú hơn nhiều, đó là việc dùng các
ký tự F, J, W, Z (và nhiều ký tự khác nữa) để ghi các công thức toán, vật lý,
hóa học,… để ghi các đơn vị đo lường, như tính công là J (June), tính công suất
là W (Watt),…Và nhất là để ghi tên riêng (gồm địa danh và nhân danh) nước ngoài
và các thuật ngữ khoa học có nguồn gốc nước ngoài. Các ký tự đó đã được dùng từ
lâu, ngày nay lại càng dùng nhiều hơn. Tuy nhiên việc
các ký tự trên có
mặt trong văn bản tiếng Việt không có nghĩa là nó đã thuộc về hệ chữ cái tiếng
Việt. Dễ nhận thấy điều này khi ngoài những ký tự trên ta còn dùng cả
các ký tự khác như a, b, F, e, g, p, l, j, m,… để làm các ký hiệu ghi các công thức khoa học, kỹ thuật.
Không ai dám nói những ký tự ấy cũng
thuộc về chữ cái tiếng Việt. Còn như trường hợp viết tắt trung ương thành
TW là viết sai; viết sai nhưng nhiều khi người ta bắt chước nhau mà thành thói
quen ở một số người.
Hệ thống chữ cái của chữ Quốc ngữ (QN) là hệ thống chữ cái
ghi âm. Nhìn chung mỗi âm tương đương với một chữ cái. (Một số
trường hợp không tương đương, như c, k, q cùng ghi âm “cờ”; d, gi cùng ghi âm “dờ” có lý do về nghĩa và về văn hóa). Đưa thêm
một chữ cái vào một hệ thống đã có thì nó phải mang chức năng ghi một âm nào đó.
Nhưng hệ thống chữ cái của tiếng Việt đã đủ rồi, bây giờ thêm vào hệ thống ấy
nó sẽ hoặc là không ăn nhập gì, hoặc là phá vỡ hệ thống. Ví dụ, đã có tổ hợp
“ph” để ghi âm “phờ” thì chữ cái “f” sẽ ghi âm gì? Đã có chữ cái “d” và “gi” để
ghi âm “dờ” thì chữ cái “z” sẽ ghi âm gì? Còn
nếu để thay thế một số chữ cái cũ thì lại hoàn toàn là chuyện khác.
2. Vấn đề viết tên riêng nước ngoài
HHM viết: “Sau những thói
quen ban đầu cố gắng mòn mỏi
để Hán Việt hóa bằng được các tên riêng
trên thế giới cho bùi tai mình, chúng ta đã vượt được dần ra khỏi cái thói quen cố hữu lấy mình làm trung tâm này” (chúng tôi nhấn mạnh).
Nếu bạn HHM biết rằng trước khi người Pháp vào Việt
Nam, người Việt Nam biết đến thế giới Phương Tây chủ yếu qua sách báo Trung
Quốc (hay có tiếp xúc trực tiếp thì cũng phải dùng văn tự Hán để ghi lại) thì
chắc không kết luận như trên. Trước khi chữ QN được sử dụng rộng rãi, chúng ta
sử dụng chữ Hán, mà dùng chữ Hán thì phải đọc theo âm Hán Việt. Ví dụ, Alexandre de Rhodes thì đọc là A Lịch Sơn Đắc Lộ, Pigneau de
Behaineđọc là Bá Đa Lộc. Đầu thế kỷ
XX, trong phong trào vận động duy tân, các chí sỹ cách mạng Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh và nhiều chí sỹ khác đều tiếp cận với tư tưởng dân chủ tư sản Âu Mỹ
thông qua sách báo của phong trào duy tân ở Trung Quốc, cho nên ngay cả khi
dùng chữ QN, các tên riêng Ấn Âu vẫn thường được đọc theo âm Hán Việt: Lư Thoa (Rousseau), Mạnh Đức Tư Cưu (Montesquieu), Kha Luân
Bố (Christopher Columbus). Một số nhỏ
trong cách đọc đó tồn tại đến nay: Anh, Pháp, Mỹ
(Hoa Kỳ), Ba Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Na Uy, Thụy
Điển, Phần Lan, Thụy Sỹ, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ. Dù bây giờ hầu hết các tên
riêng còn lại đều đã đọc theo phiên âm trực tiếp (hoặc như nguyên ngữ) nhưng
với các tên riêng trên đã rất quen thuộc nên cũng không cần phải thay đổi. Ai
đã biết một chút Anh ngữ thì không khó đồng nhất các tên nước nói trên vớiEngland,
France , America , Poland ,… Một vài trường hợp
phiên âm lại là do sự đề nghị của chính phủ (không chắc là của tất cả người
dân) nước ấy, như Úc ® Ô-xtrây-li-a
(Australia), Ý ® I-ta-li-a (Italy, Italiana)[ii]. Tuy nhiên trong những trường hợp cụ thể, cách đọc Hán Việt
vẫn được dùng: bia Úc, Hội Doanh nhân Việt
kiều Úc. Những trường hợp thay bằng phiên âm trực tiếp có cái lý của nó,
nhưng những trường hợp vẫn giữ cách đọc Hán Việt cũng có cái lý của nó. Quy
luật hàng đầu chi phối ngôn ngữ là tính quy ước (võ đoán). Một khi hình thành thói quen sử dụng của đa số có
nghĩa là cộng đồng đã nhất trí như vậy.
Về các tên riêng Đông Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên),
HHM có cách giải thích thật kỳ quặc khi viết:
“Từ bao giờ chúng ta tự cho mình có
nghĩa vụ phải chuyển âm Hán Việt các tên riêng
Trung Hoa hay Triều Tiên”.
Hay: “Nơi đâu “thân
thiện” thì người ta gắng Hán Việt hóa, bằng không thì thôi. Hồng Kông xưa là
nhượng địa của Anh nên thôi, không cần gọi là “Hương Cảng”. Các tên riêng ở Đại
Hàn cũng khỏi bị cố gắng được Hán Việt hóa nhiều vì “không thân lắm”. Tên riêng
của Nhật Bản thì miễn phải Hán Việt hóa (…) Phải học tránh sự thiên vị trong
nhận thức”.
Trường hợp các nước Đông Á, ngoài nguyên nhân đã nói trên,
còn do lịch sử quan hệ lâu đời của Việt Nam đối với họ. Trung Quốc có nhiều
quan hệ nhất do đó hầu như tất cả các tên riêng đều đọc theo âm Hán Việt (sẽ
nói rõ hơn ở phần sau). Triều Tiên ít quan hệ hơn cả nên số tên riêng đọc theo
âm Hán Việt cũng ít. Còn Nhật Bản thì không phải “miễn phải Hán Việt Hóa”
như bạn HHM tưởng đâu. Không ít tên người, tên đất Nhật Bản đọc bằng âm Hán
Việt. Lý do là đầu thế kỷ XX, Nhật Bản là tấm gương của Á châu đã giương cao
ngọn cờ tự lập tự cường, chơi “ngang ngửa” với Tây Phương. Cụ Phan Bội Châu tìm
hiểu nước Nhật qua sách báo Trung Quốc, và rồi chính cụ cùng một số đồng chí
của mình đã đưa khoảng 200 thanh niên Việt Nam sang Nhật du học. Do đó chúng ta
biết đến một loạt tên người, tên đất Nhật Bản đọc theo âm Hán Việt như Phúc Trạch Dụ Cát(Fukuzawa), Minh Trị (Meiji), Đại Ôi hay Đại Ôi Trọng Tín (Okuma
Shigenobu), Khuyển Dưỡng Nghị (Inukai Tsuyoshi), Đông Kinh (Tokyo), Hoành Tân (Yokohama),…
Về tên riêng Trung Quốc, có lẽ chỉ trừ trường hợp Hồng Kông[iii] (Hong Kong ) còn thì từ xưa đã đọc theo âm Hán Việt. Nếu
bây giờ chuyển cách đọc, xáo trộn hàng ngàn tên người, tên đất là chuyện không
đơn giản. Ví dụ: Khổng Tử ® Kongzi , Gia
Cát Lượng ® Zhuge Liang, Lý Bạch ® Li Bai, Lỗ Tấn ® Lu xun, Bắc Kinh ®Beijing, Quảng
Châu ® Guang Zhou. Các tên người,
tên đất Trung Quốc không những có mặt trong các tác phẩm của Trung Quốc đã quen
thuộc ở Việt Nam mà trong chính văn chương Việt Nam cũng dùng không ít, nhưTruyện
Kiều, Chinh phụ ngâm,… chẳng hạn.
Ngay cả các tên riêng Trung Quốc hiện đại nếu bây giờ đọc
theo phiên âm La tinh cũng là cả một vấn đề phải cân nhắc kĩ. Vì nó vừa khó
khăn (cách đọc phiên âm La tinh với tiếng Trung khác nhiều cách đọc trong các
ngôn ngữ Ấn Âu), vừa trái với ngữ cảm thông thường. Đặng Tiểu Bình đọc là Dèng Xiǎopíng (Tung Xéo
Pình),Hồ Cẩm Đào đọc là Hú Jǐntāo (Khú Chỉn
Thao), vừa khó vừa buồn cười nữa. Chúng tôi đi Trung Quốc vẫn gọi các hướng
dẫn viên người Trung Quốc theo âm Hán Việt, ví dụ: Tăng Quốc Vân (Zeng Quo Yun), Đặng Chiêu Thanh (Deng Zhao
Qing), Tăng Tiêu Quang (Geng Yao Quang) và thấy như thế là ổn nhiều đường. Nếu cố
gọi họ bằng âm Trung Quốc mà không chính xác có thể mang lại điều bất nhã, còn
gọi theo âm Hán Việt thì đã có quy tắc, họ cũng nắm rất rõ. Nó khác hẳn trường
hợp với người Phương Tây, ta phải cố gắng phát âm đúng như tên của họ.
Nói như vậy để thấy vấn đề ở đây chẳng phải do “thói quen cố hữu lấy mình làm trung tâm”, chẳng hề do“cố
gắng mòn mỏi để Hán Việt hóa bằng được”, cũng chẳng phải
do “thiên vị” hay “thân thiện” với Trung Quốc
hay khối Đông Á hơn, mà thực ra nó là truyền thống văn hóa, là ngữ cảm của
người bản ngữ, nghĩa là vấn đề của văn hóa – ngôn ngữ, chứ không liên quan gì
đến “ý thức hệ” cả. Truyền thống ở đây đã đóng vai trò tích cực, giữ lại những
gì phù hợp, chống “hiện đại hóa” một cách máy móc.
3. Vấn đề viết “từ kép”
Theo HHM, các “từ kép” như sinh vật, phải viết
liền lại là sinhvật, và từ đấy cho
đến hết bài, tác giả làm gương viết liền tất cả các “từ kép”:
hệthống, nốikết, thaotác,
tinhthần họcsinh, hiểubiết,chủquan,tiếptục,
kiểmtra, nghingờ, nướcngoài, đánhvật, vôđịnh, táchrời, chínhxác, câuchữ,
khuyếnkhích, thẩmđịnh, tốcđộ, đọchiểu, tốnkém, lưutrữ, giấytờ, vănbản, điệntử,
khókhăn, tấtcả, nguyêndo, xưakia, chúngta, xâydựng, quốcngữ, tưởngnhớ, cônglao,
đềxuất, giảipháp, hãnhữu, trườnghợp, gạchngang, hyvọng, quyếttâm, ýtưởng,
tuyệtvời, tiếnlên, thốngnhất.
Riêng các từ như từ kép, chữ kép thì khi viết liền, khi viết rời; từ bộ nhớ không thấy viết
liền, nhưng theo tôi, đó là những từ có cấu tạo “chặt” hơn nhiều so với từ đọchiểu, nướcngoài, tiến lên mà HHM viết liền.
Khái niệm “từ kép” của HHM không được định nghĩa nên có thể
hiểu đó là từ ghép theo thuật ngữ ngành ngôn ngữ học, và cả từ láy, vì bạn viết liền cả từ khókhăn.
Hãy thử phân tích “tác hại” của lối viết rời mà bạn HHM chỉ
ra:
1. Thứ nhất, bạn HHM cho rằng viết rời “làm tăng
tính mất chính xác của câu chữ”, “khuyến khích tính chủ quan thẩm định”, “làm
giảm tốc độ đọc hiểu”. HHM lấy ví dụ:
“Khi bạn đọc câu “Học sinh vật cô Na”, bạn phải cố làm một thao tác tinh thần để nối học sinh
thành “họcsinh”, rồi kiểm tra xem có được hay không theo hiểu biết chủ quan của bạn. Bạn thấy
được, và bạn tiếp tục kiểm tra câu này, và bạn nghi ngờ được, nhưng chắc không phải thế.
Tiếp đến bạn phải cố làm một thao tác tinh thần khác để nối “sinh vật” thành
“sinhvật”, rồi kiểm tra xem có được hay không theo hiểu biết chủ quan của bạn. Bạn thấy
được, và bạn tiếp tục kiểm tra câu này, và bạn tự bảo được, chắc là thế”.
(Nhấn mạnh trong nguyên văn)
Hỡi bạn HHM, nếu quả thực người Việt Nam đọc chữ Quốc ngữ
theo kiểu mỗi “từ kép” lại phải làm “thao tác tinh
thần” như trên thì mỗi cuộc đọc người Việt Nam
là một cuộc đấu vật chứ không phải
là đọc nữa. Đọc vất vả thế thì chắc thiên hạ đọc được 10 trang, ta chưa chắc
nổi một trang, và người Việt Nam
chắc chắn phải ngu hơn các dân tộc khác nhiều lần!
Xin nói thêm, những trường hợp như câu Học sinh vật cô Na, người ta gọi là “câu mơ hồ”, vì ngắt
ở những chỗ khác nhau sẽ tạo nên nghĩa khác nhau. Loại câu này có số lượng rất
ít và trong ngôn ngữ của nước nào cũng có, chứ đâu chỉ có ở tiếng Việt.
Và xin hỏi bạn HHM, việc viết liền các “từ kép” trong đoạn
văn của bạn nói trên liệu có chính xác hơn được tí nào so với viết rời không?
Có chỗ nào do viết rời mà trở nên mơ hồ nghĩa như câu Học sinh vật cô Na không?
2. Thứ hai, bạn HHM nêu một số hệ lụy khác như “làm tốn kém lưu trữ trên giấy tờ, văn bản hoặc trên các bộ
nhớ điện tử”, “làm khó khăn cho người nước ngoài học tiếng Việt”.
Về việc “tốn kém” giấy, có thể, nhưng không đáng kể. Chỉ cần
quan sát các sách luyện dịch Anh – Việt, Pháp – Việt, ta thấy độ dài các bài ở
phần tiếng Việt so với tiếng Anh, Pháp là tương đương nhau (chia cột hay đặt
trang song song cũng vẫn thấy như vậy, nếu có ép chữ hay giãn chữ cũng là không
đáng kể)[iv].
Vả lại theo phương án viết liền để tiết kiệm giấy của bạn HHM thì cứ 2 “từ
ghép” mới thu lại được một khoảng trống, mà số lượng “từ kép”, cũng chỉ chiếm
một phần trong kho từ vựng (vì ngoài nó còn các từ đơn và các cụm từ), do đó
chẳng bớt được bao nhiêu. Có lẽ 100 trang chưa chắc đã tiết kiệm nổi 1 trang.
Còn lưu trong bộ nhớ điện tử thì tiếng Việt có nặng hơn vì có thêm dấu phụ,
nhưng với bộ nhớ điện tử, phần nặng hơn đó cũng chả có nghĩa lý gì. Với những
máy tính thế hệ cũ nhất, dung lượng chỉ vài GB cũng chẳng bao giờ bị đầy vì các
tệp văn bản, huống chi các máy tính phổ biến đang dùng hiện giờ đều trên trăm
GB.
Về việc “làm khó khăn
cho người nước ngoài học tiếng Việt” thì thử hỏi chữ
QN (cũng như tiếng Việt nói chung), để trước hết cho người Việt dùng hay là để
cho người nước ngoài mà bạn lại lo vấn đề như vậy? Tiếng Anh được loài người
khắp hành tinh học, thế mà người Anh chẳng bao giờ làm gì cho nó dễ đi để các dân tộc
khác nhờ; trái lại, tất cả các dân tộc học tiếng Anh đều phải “quy phục” tiếng
Anh, từ cách phát âm xa lạ cho đến mọi các quy tắc ngữ pháp rắc rối của nó.
Trở lại về cách viết liền từ. Không phải đến bây giờ mới có
bạn HHM đưa ra phương án đó. Nhưng phương án đó không bao giờ thành hiện thực
bởi những lý do sau:
Thứ nhất, nó trái với bản
chất của tiếng Việt. Tiếng Việt là một thứ tiếng đơn âm. Đơn vị phát
âm là âm tiết (tiếng). Ví dụ
tiếng hiểu (trùng với từ hiểu), nếu phân tích ra thì có 4 âm tố[v]: (chưa kể thanh điệu):
h- i - ê - u
nhưng
chỉ phát âm 1 lần. Ranh giới giữa các âm tố h- i - ê - u không thể nào
nhận thấy, dù người thính tai đến đâu. Cách đọc “hờ-i-ê-u-iêu-hỏi-hiểu” chỉ
dành cho trẻ em bắt đầu học chữ và giai đoạn đó qua đi rất nhanh, sau đó không
bao giờ lặp lại nữa.
Trong khi đó, các tiếng châu Âu là tiếng đa âm, đơn vị phát âm là âm tố. Ví dụ từ understand (hiểu)
trong tiếng Anh, ta phải phát âm đầy đủ, kể cả cả âm /d/ở cuối:
Ùndəstænd
Và việc đọc nối các âm tố lại là cần thiết, kể cả khi nó là
hai từ khác nhau, như Thank you chẳng hạn.
Thứ hai, ranh giới từ
trong tiếng Việt không rõ ràng. Trong nhiều trường hợp, hai yếu tố có
quan hệ nghĩa ở một mức độ nào đó không đủ chặt để tạo thành một từ nhưng cũng không đủ lỏng để coi là hai từ, tức là tình trạng “lưỡng khả”: nhà xuất bản là 1 hay 2 từ? trường dạy nghề là 1, 2 hay 3
từ? Nếu coi nhà hàng là một từ thì nhà văn hóa,
nhà chung cư có là một từ không? Các trường
hợp đồng cỏ, sân kho, trại chăn nuôi, đường thủy, đường mòn,
đường độc đạo, đường chiến lược,.. lại càng khó.
Thứ ba, nếu viết liền, việc đọc cũng trở nên khó khăn: không
biết ngắt ở chỗ nào, nếu từ ấy chưa quen thuộc với một người (nhất là với trẻ
em mới học và người nước ngoài học tiếng Việt): hệthống có thể đọc thành hệt hống, đọchiểu thành đọ chiểu, pháthành thành phá thành, phátâm thành phá tâm. Bạn HHM nhắc đến học giả Hoàng Xuân Hãn đã khởi đầu cho
cách viết liền, vậy cần hiểu vấn đề này như thế nào?
Thực ra tiền đề của cách viết liền là cách viết dùng gạch
nối đã có rải rác từ đầu thế kỷ XX, tuy nhiên nó không tạo ra được quy tắc. Ví
dụ bài Mừng năm mới trên báo Nam Phong số Tết năm 1918, viết gạch nối cho các từ ghép và từ láy: Đinh-tị, Mậu-ngọ, cảnh-tượng, phúc-lộc, thời-kỳ, lăng-lắc,
dằng-dặc,… Thế nhưng cũng trong bài báo này,
nhiều từ ghép, từ láy lại không gạch nối: nhà nước, khai
hoang, ghi chép, hưởng thụ, quý báu, mở mang, lẩn thẩn,… Có khi mâu
thuẫn không thể chấp nhận, như viết tàu-thủy (gạch nối) nhưng lại viết xe hỏa(không gạch
nối).
Cách viết dùng gạch nối hay viết liền của của Hoàng Xuân Hãn
cũng vậy. Trong (lời) Tựa cuốn Danh từ khoa
học, xuất bản năm 1942, ông dùng gạch nối cho các từ ghép và từ láy
nhưng không nhất quán. Viết tự-điển,
khoa-học, danh-từ, tương-đương, cựu-học, chu-đáo, hiếm-hoi, lầm-lỗi,… nhưng lại viết quyết định, nước nhà, bó buộc, bắt bẻ, xưa nay, tóm tắt, may
mắn, chậm chạp,… Khi tái bản
(1946), trong Nguyên tựa, ông bỏ gạch nối, thay bằng viết liền: khoahọc, danhtừ, pháthành, xuấtbản, thuậntiện, rõràng, dodự,… thế nhưng
cũng không nhất quán khi viết giải thưởng,
mách bảo, sửa soạn, ít nhiều,… Và rất mâu thuẫn khi viết hàmsố (viết liền), mà
lại viết số thương (viết rời).
Hoàng Xuân Hãn là nhà khoa học lớn, có nhiều cống hiến, ai
cũng biết thế, nhưng không phải tất cả mọi ý kiến của ông đều đúng. Hơn nữa ấn
phẩm trên là một trường hợp hiếm hoi, mang tính đề xuất, thử nghiệm, sau này
cũng không thấy ông nhắc lại. Nó không được cuộc sống chấp nhận vì cả tính khoa
học (không phù hợp với tiếng Việt – ngôn ngữ đơn âm) và cả tính khả thi (khó
xác định ranh giới từ) như đã nói trên.
Chúng tôi muốn đưa thêm ý kiến của một số nhà khoa học về
quan hệ chữ – tiếng của chữ QN.
Theo học giả Cao Xuân Hạo, việc dùng chữ QN thực ra là không
phù hợp với đặc thù của tiếng Việt. Với đặc thù đơn âm, tiếng Việt
thích hợp với thứ chữ mang “diện mạo tổng quát” (gestalt), như chữ Hán chẳng
hạn, tức mỗi chữ là một “hình ảnh”, chứ không phải mỗi chữ ghi lại cái chuỗi âm
tố mà thực ra thính giác con người không thể nhận ra được. Trong khi các tiếng
châu Âu, về nguyên tắc, các âm tố trong từ đều hiển hiện khi phát âm.
Tuy vậy, do nắm được cái đặc thù đơn âm ấy của tiếng Việt
nên những người chế tác ra chữ Quốc ngữ đã rất sáng tạo, đó là dùng lối viết rời từng âm tiết. GS. Nguyễn Quang Hồng đã chỉ ra hai
đặc điểm của chữ QN trong quan hệ với đặc điểm của tiếng Việt[vi],
đó là:
– “Nếu như các
văn tự Latin khác đều lấy từ làm đơn vị để viết chữ (nghĩa là trong một từ, các
chữ cái được viết liền với nhau một mạch), thì ở chữ QN của người Việt Nam đơn
vị của một khối chữ tách biệt trong dòng viết là từng âm tiết một, chứ không
phải là chỉnh thể từ ngữ”.
– Dùng dấu phụ
một cách đậm đặc (vì không liên
quan đến vấn đề đang bàn, nên không trình bày ở đây)
Theo Nguyễn Quang Hồng, chữ QN đã kế thừa chữ Hán và chữ
Nôm. Chữ QN “tỏ ra rất thuận tiện đối với
người bản ngữ”. Và: “Viết rời âm tiết một, chữ QN cất bỏ được một gánh nặng
không cần thiết cho người viết chữ vì như thế là khi viết người ta khỏi phải
làm cái công việc rắc rối là phân chia lời nói thành các đơn vị từ. Bởi vì đối
với tiếng Việt, ranh giới từ ngữ là câu chuyện cực kỳ phức tạp, trong khi đó
thì ranh giới âm tiết lại luôn luôn là sự thực hiển nhiên trong lời nói, ai
cũng có thể xác định được một cách dễ dàng”.
GS. Nguyễn Quang Hồng viết tiếp: “Viết rời âm tiết và đánh dấu phụ là thành tựu mà những
người xây dựng chữ QN đã đạt tới sau một quá trình lựa chọn, sáng tạo cách viết
và thâm nhập dần vào bản thân tiếng Việt. Đó quyết không phải là cái gì ấu trĩ,
thô vụng, bất cập của chữ Việt Latin so với các hệ thống chữ viết Latin khác.
Ngược lại, chính đã không máy móc lặp lại hoàn toàn khuôn mẫu có sẵn, chính sự
thoát ly ít nhiều khỏi hình ảnh của chữ viết ghi âm các tiếng châu Âu một cách
hợp lý đó (đồng thời kế thừa truyền thống viết rời từng âm tiết một của chữ Nôm – vốn dĩ thích
hợp với đặc điểm loại hình của tiếng Việt), đã làm thành một trong những nguyên
nhân cơ bản đảm bảo cho công cuộc cải cách chữ viết diễn ra trong quá khứ (từ
chữ Nôm kiểu Hán tự chuyển sang chữ QN Latin hoá) dẫn đến thành công một cách
vững chắc vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX này”.
Chúng tôi muốn nói thêm tác động ở chiều ngược lại: Theo cảm
nhận của chúng tôi, với cách viết rời từng âm tiết, chúng ta đã làm biến đổi phần nào chữ viết La tinh. Vốn từ một
thứ chữ hoàn toàn ghi âm, các con chữ La tinh khi dùng làm chữ QN đã trở thành
một thứ chữ có tính ghi ý (xin nhắc lại, tôi dùng chữ “có tính ghi ý” chứ không phải “ghi
ý”). Bởi ta thấy các hiện tượng sau:
– Quan hệ âm – chữ viết của chữ QN không phải là quan hệ mỗi âm tố – mỗi ký tự (chữ cái) như
các tiếng châu Âu, mà là quan hệ mỗi khối âm (âm tiết, tiếng) – mỗi khối chữ (một chữ), giống phần
nào với nguyên tắc của chữ Hán, chữ Nôm. Số chữ do đó tương đương với số lượng âm tiết có trong ngôn ngữ. (Nó khác hẳn các tiếng châu Âu: số chữ
phải tương đương với số từ vựng). Điều này rất có ý nghĩa khi học chính tả
tiếng Việt: không cần chú ý nhiều vào phát âm, ta vẫn hoàn toàn có thể viết
đúng chính tả nhờ vào việc nhớ “mặt chữ”, bởi vì số lượng âm tiết – chữ là có hạn, ít
hơn rất nhiều số lượng từ vựng. Thực tế, đa số chúng ta viết đúng chính tả là
nhờ nhớ mặt chữ.
– Số ký tự (chữ cái) trong một chữ của chữ QN so với tiếng
Anh, tiếng Pháp,… là rất ngắn (dài nhất như chữnghiêng gồm 7 ký tự, tương đương những từ có số ký tự trung bình của
tiếng Anh, trong khi tiếng Anh có những từ dài tới 19 ký tự). Cho nên để đọc
chữ QN, ta không qua “ráp vần” mà nhận dạng diện mạo tổng quát (gestalt) chữ
đó như một hình ảnh thị giác, tức là đọc thẳng từng chữ một. Cũng có nghĩa khi
đọc chữ QN, cơ bản là donhớ mặt chữ.
– Còn có thể thấy tính ghi ý qua việc đọc các chữ viết
tắt trong tiếng Việt, đó là đọc như khi viết đầy đủ: BS = bác sỹ,GSTS = giáo sư tiến
sỹ, HTX = hợp tác xã, XHCN = xã hội chủ
nghĩa (chứ không đọc bê ét, giê ét tê ét, hát tê ích-xì, ích-xì hát xê en-nờ). Tức là những
chữ cái ở đây hoàn toàn để ghi ý, không liên
quan gì đến phát âm nữa. Nó khác hẳn tiếng Anh, đọc từng chữ cái hoặc ráp vần
các chữ cái ấy, tức là hoàn toàn theo nguyên tắcghi âm: BBC =
/bi:bi:si:/ (British Broadcasting Corporation, Tập đoàn Truyền thanh Anh), ASEAN = /æsi:æn/ (Association
of Southeast Asia Nations, Hiệp hội các
Quốc gia Đông Nam Á)
Tóm lại, các ý kiến trong bài viết Chuyện viết tiếng Việt của bạn HHM là
quá chủ quan và quá vội vàng. Hai ý đầu tuy nhận định không đúng tình hình
nhưng từ đó cũng đặt ra được vấn đề cần tiếp tục giải quyết. Song ý thứ ba –
đề xuất lối viết liền từ thì quả là ấu trĩ.
Bạn chưa thấy sự khác nhau cơ bản giữa tiếng Việt và các tiếng châu Âu, cho nên
muốn rập khuôn theo cách viết liền từ của các ngôn ngữ châu Âu. Thế nhưng cách
viết rời âm tiết trong từ của chữ QN đã là một quá trình tiếp thu có sáng tạo
trên cơ sở chữ viết truyền thống và phù hợp với đặc trưng tiếng Việt. Theo tôi,
việc dùng chữ cái La tinh nhưng lại ghi rời âm tiết là một sự sáng tạo tuyệt
vời của những người chế tác và sử dụng nó, kể từ những người manh nha khởi
xướng, như Gaspar do Amiral, Antonio Barbosa, Francesco Buzumi, Francesco
de Pina, Cristoforo Borri cho đến người hoàn thiện nó – Giáo sỹ Alexandre de
Rhode. Và đặc biệt là công lao của những trí thức Việt Nam đầu thế kỷ
XX, những người đã mạnh dạn sử dụng nó, cổ vũ nhiệt tình cho nó, dùng nó thay
thế cho chữ Hán (nhập ngoại) và chữ Nôm (chưa hoàn thiện). Cho đến nay, theo
tôi, chữ QN đã hoàn thiện, không cần phải thêm bớt, cải tiến gì nữa.
[ii] Cách dùng I-ta-li-a, Ô-xtrây-li-a phổ biến ở thập
kỷ tám mươi, chín mươi, nay có xu hướng quay trở lại dùngÝ, Úc trên các báo và và tạp chí.
[iii] Trước khi trở
thành thuộc địa của Anh, Hồng Kông là một bãi đá vô danh, cho nên không có gì
lạ khi nó không có trong “bản đồ trí tuệ” của người Việt Nam. Khi thuộc về Anh,
Hồng Kông trở thành một trung tâm kinh tế, do đó, tên riêng này đi vào ngôn ngữ
các nước theo cách gọi của người Anh là lẽ đương nhiên.
[iv] So với chữ Anh,
trên một dòng, chữ Quốc ngữ có nhiều chỗ trống hơn (do viết rời từ) nhưng vì
các chữ có độ dài tương đương nhau, không có chữ quá dài hoặc quá ngắn cho nên
lại không mất những khoảng trống lớn khi cân dòng như trong chữ Anh. Và do đó
tương quan chung lại ngang nhau.
[v] Chúng tôi dùng
thuật ngữ âm tố (thể hiện là bộ phận của âm tiết) cho dễ hiểu với đa số bạn
đọc, thay vì âm vị, chính xác
nhưng khó hiểu hơn.
[vi] Nguyễn Quang
Hồng: Đặc điểm của chữ Việt La tinh trong quan hệ với đặc điểm của
tiếng Việt, TC Ngôn ngữ số 2-1992.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét