I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cương giới lãnh thổ luôn là một vấn đề thiêng liêng của từng quốc gia, từng dân tộc. Việc phân định ranh giới giữa các quốc gia với nhau luôn mang nhiều sự tranh chấp. Nhiệm vụ của nhà sử học khi nghiên cứu vấn đề này là phải làm rõ nguồn gốc, xuất xứ của đường cương giới, phải tuyệt đối đứng trên quan điểm khách quan để giải thích về cương giới quốc gia, không bị chi phối bởi quan điểm dân tộc hẹp hòi mà có ý thức lệch lạc về vấn đề, cũng như khoa học phải gắn liền với đời sống thực tiễn, thực hiện được điều đó thì mới làm rõ và giải thích chính xác vấn đề cần phải giải quyết.
Biên giới lãnh thổ của một quốc gia khi ra đời thường không đồng nhất với hiện nay, điều đó không ngoại lệ đối với Việt Nam, qua các thời kỳ lịch sử. Đặc biệt, vào giai đoạn trung đại, khi mà vấn đề biên giới lãnh thổ chưa được xác định rõ ràng thì sự xung đột lấn chiếm hoàn toàn có thể được hiểu theo quy luật khách quan của lịch sử. Đối với mọi quốc gia, sự toàn vẹn lãnh thổ và biên giới là rất thiêng liêng. Do biến thiên của các nhân tố lịch sử, chính trị và thiên nhiên, vấn đề biên giới luôn chứa đựng nhiều yếu tố phức tạp và nhạy cảm. Nước ta có đường biên giới trên đất liền với 3 quốc gia là Trung Quốc, Lào và Campuchia. Đường biên giới đó hình thành trong suốt chiều dài lịch sử từ thời Văn Lang cho tới ngày nay và trải qua không ít biến động. Giữa Việt Nam và các nước có chung đường biên giới vào quãng thời gian này thì không có đường biên giới rõ ràng mà chỉ có các vùng biên giới. Trên lãnh thổ Việt Nam của chúng ta đã từng chứng kiến sự ra đời và phát triển của ba vương quốc. Đó là vương quốc Văn Lang ở phía Bắc ra đời vào khoảng thế kỷ VII trước công nguyên, vương quốc Champa ở miền Trung ra đời vào khoảng thế kỷ II sau công nguyên và vương quốc Phù Nam ra đời ở phía Nam vào khoảng thế kỷ I sau công nguyên. Sự hưng thịnh của các vương quốc này mỗi thời kỳ một khác, ví như trong khi Âu Lạc đang chìm trong Bắc thuộc thì ở phía Nam vương quốc Phù Nam phát triển rất rực rỡ, đã áp đặt sự cai trị ở rất nhiều nơi trong đó có một phần đất Champa và Chân Lạp… Nhưng đến trước khi Âu Lạc giành được độc lập từ tay bọn đô hộ Trung Quốc thì Phù Nam đã suy yếu và diệt vong.
Nhiều nhà nghiên cứu khi đánh giá việc đất nước thống nhất là sự xâm lược, thôn tính lãnh thổ, mạnh được yếu thua, cách ứng xử phong kiến mang nặng tính cục bộ mà cho rằng Đại Việt là của người Kinh (tức người Việt), Champa là của người Chăm và đất Nam Bộ ngày nay thuộc quyền sở hữu của Chân Lạp (tức Campuchia sau này), cách nhìn này dễ gây ra tâm lí tỵ hiềm trong lòng dân tộc. Khi tìm hiểu về tình hình quản lý ở đồng bằng hay miền núi trước đây thì thấy rằng sự chặt chẽ hay lõng lẽo có sự khác nhau ở từng vùng miền, nhưng lãnh thổ của quốc gia chung gắn bó với hai trung tâm chính trị của đất nước ở phía Bắc là Thăng Long (Hà Nội), phía Nam là Chà Bàn (thành Đồ Bàn, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định ngày nay). Giữa Đại Việt và Champa luôn luôn có sự tranh chấp. Sự tranh chấp đó là không thể tránh khỏi bởi tư duy bành trướng của giai cấp phong kiến hai nhà nước, luôn luôn sảy ra trình trạng xung đột tùy vào sự hưng vong của hai tập đoàn phong kiến ở hai miền, trong khi nhân dân chỉ muốn hòa bình, an cư lạc nghiệp.
Trong các cuộc chiến tranh giữa Đại Việt và Champa phần thắng thường nghiêng về Đại Việt bởi những yếu tố nội lực và ngoại lực tác động. Đại Việt có cở sở kinh tế, quân sự vững mạnh hơn, cùng với đó, là sự tiếp xúc trao đổi với Trung Hoa làm cho các khí tài về quân sự của Đại Việt được cải tiến, Bên cạnh đó, việc đối diện với một nước láng giềng to lớn, luôn âm mưu xâm lược, các triều đại phong kiến Đại Việt luôn phải có ý thức đề phòng, rèn luyện võ bị, võ nghệ. Trải qua nhiều cuộc chiến tranh với Trung Quốc, ít nhiều đã để lại những nghệ thuật tác chiến trong chiến tranh. Chính vì vậy, trong cuộc đương đầu với Champa, Đại Việt lần lượt chiến thắng và hệ quả đất đai của Champa mất dần vào Đại Việt. Nói như vậy, không phải lúc nào Đại Việt cũng giành chiến thắng, khi nhà Trần suy yếu, Champa dưới sự lãnh đạo của vua Chế Bồng Nga đã xây dựng cho mình một lực lượng quân sự hùng mạnh. Nhiều lần đánh thắng Đại Việt, thậm chí đã ba lần đánh đuổi vua tôi nhà Trần tháo chạy khỏi kinh đô Thăng Long. Tuy nhiên, theo chúng tôi, học thuyết chiến tranh của vị vua Champa này không phải là chiếm đất đai, mà làm cho các quốc gia láng giềng suy yếu. Tuy nhiên, nhìn chung trong những cuộc đụng đầu lịch sử đó, vương quốc Champa đã thất bại, để rồi cư dân Champa trở thành một dân tộc trong cộng đồng 54 dân tộc đang sinh sống ở Việt Nam hiện nay.
Cùng với sự thu hẹp dần của Champa là quá trình di dân vào Thủy Chân Lạp (Nam Bộ ngày này) mà trước đây thuộc lãnh thổ của vương quốc Phù Nam chứ không phải vùng đất của Chân Lạp. Khi người Việt vào vùng đất này thì hầu như không có người ở và đã bị hoang hóa.
Qua việc một số học giả trong và ngoài nước, đã vẽ những bản đồ để mô tả lại cương giới lãnh thổ nước ta qua các thời kỳ, với ý thức là một người yêu thích lịch sử, chúng tôi đã mạnh dạn viết bài này để có thể góp phần đóng góp cho công cuộc biên soạn trên. Bài này không phải để gây sự tranh cãi về sự xâm lược, thôn tính hay sự bành trường về phương Nam của người Việt, mà mong muốn trả lại cho lịch sử những vấn đề nó đã diễn ra. Chúng ta không nên né tránh mà phải đối diện với nó, tránh được sự kích động, âm mưu chia rẽ dân tộc của các thế lực bên ngoài. Bởi việc phân định biên giới lãnh thổ không chỉ là vấn đề của quá khứ mà nó đang rất nóng bỏng, gây ra nhiều sự tranh cãi giữa các quốc gia láng giềng với nhau.
II. BIÊN GIỚI PHÍA NAM CỦA NƯỚC VIỆT QUA CÁC THỜI KỲ
- Khảo cứu về biên giới của vương quốc đầu tiên của người Việt
Cương vực lãnh thổ của nước Văn Lang đã được ghi chép trong nhiều sách sử. Theo sách Thông Điển của Đỗ Hựu đời Đường thì “Châu Phong (735 – 812) là nước Văn Lang xưa”; theo Cựu đường Thư Địa lý Chí: “Châu Phong ở Tây Bắc An Nam, trị sở là Gia Ninh. Đời Hán (từ năm 206 trước Công nguyên đến năm 220), huyện Mê Linh thuộc huyện Giao Chỉ,… đất Văn Lang xưa”. Như vậy, theo hai sách trên thì nước Văn Lang ở vào huyện Mê Linh đời Hán và ở Châu Phong đời Đường, nhưng hai sách này chỉ chép tên nước Văn Lang, không đề cập gì đến cương vực đất đai của nó. Đại Việt sử lược cuốn sách cổ nhất còn sót lại có ghi chép về 15 bộ thời Văn Lang mà nhà sử học Đào Duy Anh qua khảo cứu của mình đã chỉ cụ thể như sau:
- Giao Chỉ: vị trí ở hữu ngạn sông Hồng, gồm miền Hà Nội ngày nay và miền xung quanh, sang đời Đường thì vị trí của huyện Giao Chỉ có dời về phía Tây Bắc một chút.
- Việt Thường: Tên nước xưa trong truyền thuyết, tương đương với miền Hà Tỉnh ngày nay
- Vũ Ninh: Tương đương với huyện Quế Dương và Võ Giảng tỉnh Hà Bắc ngày nay
- Quân Ninh: Khoảng miền huyện Yên Định tỉnh Thanh Hóa ngày nay
- Gia Ninh: Phú Thọ ngày nay
- Ninh Hải: Miền Nam Khâm Châu tỉnh Quảng Đông Trung Quốc ngày nay
- Lục Hải: Miền Quảng Ninh ngày nay
- Thang Tuyền: Thang Châu ở gần Ung Châu
- Tân Xương: gồm miền Phú Thọ, Vĩnh Phúc ngày nay
- Bình Văn: Không rõ
- Văn Lang: Làng Hi Cương huyện Sơn Vi tỉnh Phú Thọ
- Cửu Chân: Tương đương với miền Nam Thanh Hóa và Nghệ An
- Nhật Nam: Ở phía Nam dãy Hoành Sơn
- Hoài Hoan: Ở miền Nghệ An ngày nay
- Cửu Đức: Ở miền Hà Tĩnh ngày nay.
Đại Việt sử lược là cuốn sách sử ra đời giai đoạn sau này, các tên huyện đều lấy từ tên gọi thời Bắc thuộc, nên có cái tên Nhật Nam trong danh sách này, là vùng đất phía Nam dãi Hoành Sơn. Thật ra cương giới phía Nam của Văn Lang chỉ tới ngang Hoành Sơn. Rất nhiều học giả trong nước đã có sự nhầm lẫn đáng tiếc khi cho rằng biên giới phía Nam của Văn Lang đến ngang đèo Hải Vân. Theo như người lập danh sách này thì đất 15 bộ ấy không thể ở ngoài phạm vi của miền Bắc nước Việt Nam cùng với một dải miền Nam tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc. Sau đó học giả Đào Duy Anh đi đến kết luận: “biên giới phía Bắc của Văn Lang – Âu Lạc lấn vào miền Nam tỉnh Quảng Tây ngày nay. Biên giới phía Nam thì đến Hoành Sơn. Biên giới phía Tây thì không được rõ rệt như thế. Có lẽ là miền thượng lưu sông Đà, sông Mã, sông Chu, sông Lam, một dải dọc biên giới Việt – Lào ngày nay”. Về sau Tiến sĩ Huỳnh Công Bá trong Lịch sử Việt Nam cổ trung đại khi khảo cứu Dư địa chí của Nguyễn Trãi và tham khảo các tài liệu khác, xác định 15 bộ của nước Văn Lang là:
- Văn Lang: Vùng Lâm Thao, Bạch Hạc, Vĩnh Phúc ngày nay.
- Phúc Lộc: Vùng Sơn Tây, Bắc Ninh ngày nay.
- Tân Hưng: Vùng Tuyên Quang, Hưng Hóa về sau.
- Vũ Định: Vùng Thái Nguyên, Cao Bằng ngày nay.
- Vũ Ninh: Khu vực Quế Dương, Quế Võ thuộc Bắc Ninh ngày nay.
- Lục Hải: Thuộc Lạng Sơn ngày nay.
- Ninh Hải: Vùng Quảng Yên và phía Nam Khâm Châu.
- Dương Tuyền: Thuộc Hải Dương ngày nay.
- Chu Diên: Khu vực giữa sông Hồng và sông Đáy thuộc Hà Tây.
- Giao Chỉ: Ở hữu ngạn sông Hồng, gồm Hà Nội và vùng phụ cận.
- Bình Văn: Có thể là vùng Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình ngày nay.
- Cửu Chân: Thuộc Thanh Hóa ngày nay.
- Hoài Hoan: Thuộc đất Nghệ An ngày nay
- Cửu Đất: Thuộc đất Hà Tĩnh ngày nay.
- Việt Thường: Cũng thuộc đất Hà Tĩnh ngày nay.
Sự khảo cứu của hai nhà sử học tuy có khác nhau về địa danh nhưng đều cho rằng lãnh thổ quốc gia Văn Lang thuộc khu vực miền Bắc và Bắc Trung Bộ nước ta ngày nay và bao gồm cả phần đất của Quảng Tây, Quảng Đông và Vân Nam Trung Quốc ngày nay. Biên giới phía Nam của nước Văn Lang có thể xác định là tiếp giáp với Hoành Sơn trên đất Quảng Bình và nếu có xa nhất thì cũng chỉ đến sông Gianh. Còn biên giới phía tây và phía đông thì núi và biển đã trở thành những cương giới tự nhiên của nước Văn Lang.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý đến tính chất tương đối của ranh giới lãnh thổ ở thời bấy giờ. Vì trong những thời gian quá xa xưa, cách chúng ta 3000 năm, trong xã hội có giai cấp đầu tiên, cũng như ngay cả trong xã hội phong kiến về sau này, đường ranh giới của quốc gia không thể nào xác định một cách rạch ròi như nước ta ngày nay. Chúng ta có thể căn cứ vào những công trình nghiên cứu về sau này mà bổ sung những hiểu biết về cương giới Văn Lang, nhưng có thể nói rằng: Những điều đó cũng chỉ có thể bổ sung thêm mà vẫn không đảo lộn những hiểu biết của chúng ta hiện nay.
- Cương giới lãnh thổ của Âu Lạc thời Bắc thuộc
Đất nước rơi vào ách Bắc thuộc hơn nghìn năm, trong thời gian này có nhiều sự biến chuyển về lãnh thổ nước ta tùy thuộc vào cách chia của triều đình phong kiến phương Bắc nhưng tựu trung lại thì phần lãnh thổ của nước Âu Lạc được nằm trong hai phần đất Giao Chỉ và Cửu Chân.
Dưới thời Hán thì đất Giao Chỉ là đất Bắc Bộ ngày nay, trừ miền Tây Bắc còn phạm vi thống trị của nhà Hán, một góc Tây Nam tỉnh Ninh Bình bấy giờ là địa đầu của quận Cửu Chân và một dải bờ biển từ Thái Bình đến huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình, bấy giờ chưa được bồi đắp, cộng thêm một vùng đất về phía Tây Nam tỉnh Quảng Tây. Quận Cửu Chận thì tương đương với phía Bắc dãy Hoành Sơn gồm 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay. Về phía Nam dãi Hoành Sơn, nhà Hán lập thêm quận Nhật Nam.
Dưới thời Tam Quốc và Lưỡng Tấn thì sau khi nhà Ngô chia Giao Châu làm Quảng Châu và Giao Châu thì đất Giao Châu sau này vào thời kỳ độc lập tự chủ thì chúng ta không còn gồm dải đất ở miền Quảng Tây nữa. Thời kỳ này, thì Champa đã đánh chiếm toàn bộ quận Nhật Nam lấy Hoành Sơn làm ranh giới phía Bắc của mình.
Sự khảo cứu của học giả Đào Duy Anh trong sách Đất nước Việt Nam qua các đời cho rằng “Theo tình hình châu huyện của An Nam đô hộ phủ của nhà Đường như trên thì chúng ta thấy phạm vi thống trị của Đô hộ phủ mà phủ thành là địa điểm Hà Nội ngày nay rộng hơn phạm vi của Giao Châu thời Tam Quốc và thời Nam Bắc Triều. Nếu không kể các châu ky my ở miền Tây bắc lệ thuộc Phong Châu, chỉ kể các châu thuộc địa phận tỉnh Quảng Tây ngày nay của Trung Quốc, và các châu Lâm Ảnh là đặt khống ở miền nam Hoành Sơn”.
Năm 347, vua Champa là Phạm Văn đã đánh chiếm được toàn bộ quận Nhật Nam do nhà Hán lập ra, Champa còn nhiều lần cho quân đánh chiếm quận Cửu Chân, nhưng đều bị đánh bại. Về sau núi Đồng Trụ được coi là giới hạn phía Nam của nước ta thời Bắc thuộc với vương quốc Champa. Đến thời điểm bây giờ, việc xác định địa điểm chính xác của núi Đồng Trụ còn dựa nhiều vào truyền thuyết. Nhưng khởi nghĩa Hai Bà Trưng thì đã được chính sử ghi lại rõ ràng, các cuộc khởi nghĩa này đã nổ ra ở Nhật Nam (Nghệ An xưa). Như vậy có lẽ vào thế kỷ I, sông Lam là biên giới của quận Cửu chân và quận Nhật Nam (hiện tại vẫn có nhiều cơ sở khoa học để chứng minh rằng dòng chảy phần Hạ lưu sông Lam xưa khác với bây giờ, nếu điều đó là sự thật thì việc xác định ranh giới xưa là rất phức tạp). Từ thế kỷ II, III, IV nhiều cuộc nổi dậy và xâm lấn đã nổ ra. Các cuộc nổi dậy và xâm lấn này do các lãnh chúa và thủ lĩnh địa phương người Chăm ở đồng bằng ven biển Hà Tĩnh cầm đầu. Nhưng các lãnh chúa này đã bị đánh bật về phía Nam Sông Lam (theo An Tĩnh cổ lục) (Các lãnh chúa vùng đồng bằng ven biển Hà Tĩnh vì trong số họ một số là người Champa, một số chưa thể khẳng định được là người Việt hay người Champa, kể cả Mai Thúc Loan).
Đầu thế kỷ VI, Lý Bí khởi nghĩa ở Cửu Đức (Nghệ An) lập ra nước Vạn Xuân (544 – 602). Nhưng rồi vua Champa là Can-Thực-Luật-Bạt-Ma lại vượt qua Sông Lam. Các thế kỷ VIII (780), IX (802 – 803) quân Champa lại tiếp tục chiếm đóng Châu Hoan và Châu Ái nhưng rồi lại bị quân Đường đánh bật về phía Nam Sông Lam.
Cho ta thấy rằng tuy trải quả các thời kỳ bị đô hộ khác nhau của phong kiến phương Bắc, cương giới lãnh thổ của Âu Lạc tuy có sự thay đổi ít nhiều nhưng phần đất cơ bản là ở miền Bắc và Bắc Trung Bộ nước ta.
III. Biên giới phía Nam của Đại Việt thời kỳ độc lập tự chủ
3.1 Nước Đại Cồ Việt dưới các thời Ngô – Đinh – Tiền Lê
Thế kỷ X, Đinh Bộ Lĩnh lập nước Đại Cồ Việt. Lúc này ranh giới của Đại Cồ Việt và Champa gọi là Nam Giới. Các sách An Tĩnh Cổ Lục, Phong thổ ký, các huyện Hà Tĩnh đều nhắc đến cửa Nam Giới và núi Nam Giới là giới hạn phía Nam của Đại Cồ Việt thời kỳ này. Đối chiếu với địa hình thì cửa Nam Giới chính là cửa Sót ngày nay, nơi sông Hà Hoàng (bao gồm Sông Nghèn và Sông Sót ngày nay) đổ ra Biển. Như vậy vào thời điểm bấy giờ có thể cửa Sót còn nằm về phía Nam của núi Nam Giới (Thạch Hải, Hà Tĩnh ngày nay). Điều này là có cơ sở vì theo Địa chí Can Lộc thì “Sông Nghèn có thể là dòng chảy chính của Hạ Lưu sông Lam ngày xưa”.
Năm 981, Đại Cồ Việt sau nhiều lần bị Champa quấy rối, Lê Hoàn lần đầu tiên đem quân đi chinh phạt Champa, chiếm được Địa Lý Châu (Quảng Ninh, Quảng Bình). Champa đã phải dời kinh đô (Indrapura) từ miền Đồng Dương vào thành Phật Thệ (Vijaya, tức Bình Định ngày nay). Sau đó Lê Hoàn trả Địa Lý Châu lại cho Champa. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt: Champa từ trước vẫn là một nước lớn (đối với Đại Cồ Việt) nhưng từ sau sự kiện này đã trở thành một “tiểu quốc” chịu thần phục Đại Cồ Việt.
Do bước đầu mới thoát khỏi ách Bắc thuộc hơn 1000 năm nên còn rất non yếu và chưa ổn định. Việc vua Đinh Tiên Hoàng chọn Hoa Lư (Ninh Bình) là vùng có địa thế hiểm trở để làm kinh đô, mạnh về mặt phòng thủ quân sự lại xa với phương Bắc, thuận lợi cho công cuộc chống ngoại xâm là minh chứng rõ ràng nhất. Tình hình chính trị liên tục biến động tạo cơ hội cho phong kiến phương Bắc thực hiện dã tâm thôn tính nước ta lần nữa. Các triều đại Ngô – Đinh – Tiền Lê do phải chấn hưng đất nước nên chưa có điều kiện với tay tới các khu vực miền núi mà lãnh thổ trước đây thuộc Vương quốc Văn Lang – Âu Lạc. Vì vậy vùng đất quản lý chỉ bó hẹp trong phạm vi đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ.
3.2 Thời Lý
Đại Việt giáp gianh với vương quốc Champa. Tuy đã thần phục Đại Việt, nhưng Champa vẫn không ngừng quấy rối biên giới, mặt khác đã đề phòng Đại Việt bằng cách dời kinh đô Indrapura ở Đồng Dương vào Đồ Bàn (Vijaya) vào cuối thế kỷ X.
Đến triều Hậu Lý, Lý Thái Tổ (1010 – 1028) đã hạ được các đồn lũy và thành của vương quốc Champa ở Kỳ Hoa (Nam Cẩm Xuyên và Kỳ Anh bây giờ). Từ đây, Hoành Sơn trở thành biên giới phía Nam của Đại Việt. Sau khi mở rộng biên giới đến dãy Hoành Sơn, Cửa Nhượng và dãy Hoành Sơn trở thành pháo đài liên hoàn bảo vệ biên giới phía Nam của Đại Việt.
Dưới thời Lý Thánh Tông, Champa được nhà Tống nâng đỡ nên không những không triều cống Đại Việt nữa mà còn tăng cường tổ chức quân đội, luyện tập quân lính, đem quân quấy phá vùng biên thuỳ. Vì thế, năm 1069, vua lại quyết định thân chinh, cử Lý Thường Kiệt làm tiên phong dẫn 5 vạn quân đi đánh Champa và tiến thẳng tới kinh đô của Champa. Vua Champa là Chế Củ đem vợ con bỏ trốn khỏi kinh thành Đồ Bàn (Bình Định) đến tận vùng Panduranga (Phan Rang, Phan Thiết ngày nay) nhưng bị Lý Thường Kiệt truy đuổi. Bị bắt đưa về Thăng Long, vua Chế Củ đã xin dâng ba châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh để được chuộc tội. Điều này có ghi trong Phủ biên tạp lục: “Lý Thánh Tông, năm Thiên Huống Bảo Tượng thứ 2 (1069), Kỷ Dậu, mùa xuân, vua đi đánh Chiêm Thành, bắt vua nước ấy là Chế Củ đem về. Chế Củ xin lấy ba châu Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh để chuộc tội. Vua nhận, tha cho Chế Củ về nước”.
Cương giới phía Nam của Đại Việt từ thời điểm này kéo dài đến sông Thạch Hãn (Bắc Quảng Trị).
3.2 Thời Trần
Bước vào thiên niên thế kỷ thứ 14 đánh dấu một khúc quanh mới trong chính sách bang giao giữa Champa và Đại Việt.”Nhân dịp viếng thăm Champa vào năm 1301, thượng hoàng Trần Nhân Tôn hứa gả công chúa Huyền Trân (tức là em gái của vua Trần Anh Tôn) cho vua Chế Mân, với điều kiện Champa phải nhường cho Đại Việt hai Châu Ô và Lý. Tháng 6 năm Bính Ngọ (1306) là ngày kết hôn giữa vua Chế Mân và công chúa Huyền Trân. Tháng giêng năm Đinh Mùi (1307), vua Trần Anh Tôn đổi hai châu Ô và Lý thành châu Thuận và châu Hóa. Sau khi Chế Mân dâng hai châu Ô và châu Lý cho nhà Trần làm sính lễ thì người Việt đã di cư vào hai vùng đất này để khai phá. Theo đánh giá chung của nhiều nhà sử học, hai châu Ô, Lý mà nhà Trần đã đổi thành Thuận – Hóa là dải đất từ Nam Quảng Trị vào đến Bắc Quảng Nam ngày nay. Vấn đề được đặt ra là địa bàn thực tế phía nam của châu Hóa thời Trần. Theo khảo cứu của học giả Đào Duy Anh trong Đất nước Việt Nam qua các đời, thì Trà Kệ là huyện Quảng Điền về sau, Bồ Đài là huyện Phong Điền ngày nay, Bồ Lãng ở vùng thượng du sông Hương, Sa Lệnh là phía đông Huế, Thế Vang là huyện Phú Vang, Lợi Bồng tương đương với huyện Hương Thủy, và huyện Tư Dung thì Ông cho rằng đặt vào khoảng huyện Phú Lộc ngày nay. Và cũng theo Đào Duy Anh, biên giới phía Nam của châu Hóa thời thuộc Trần vào đến sông chợ Cửi, tức sông Thu Bồn của Quảng Nam – Đà Nẵng. Phan Khoang, trong Việt sử xứ Đàng Trong, cho rằng “huyện Phú Lộc, huyện Phú Vang thuộc tỉnh Thừa Thiên ngày nay và huyện Hòa Vang, huyện Đại Lộc, phủ Duy Xuyên thuộc tỉnh Quảng Nam ngày nay là đất Hóa Châu xưa”. Vậy biên giới phía Nam của châu Hóa thời Trần là ở đâu? Và người Việt đã vượt qua đèo Hải Vân để khai triển vùng đất Bắc Quảng Nam mà Champa đã giao cho nhà Trần chưa? Những vấn đề này đã được Tiến Sĩ Huỳnh Công Bá qua sự khảo cứu của mình đã làm rõ ngọn ngành những vấn đề này. Qua sự tìm hiểu của mình, bằng những tư liệu khi đi thực địa tại vùng đất này, Ông cho rằng: “Qua các tư liệu trên, cho thấy ít nhất là khoảng 10 năm sau ngày đám cưới Huyền Trân – Chế Mân, đã có người Việt đến khai khẩn vùng đất Bắc Quảng Nam. Địa bàn khai phá lúc bấy giờ diễn ra trên địa bàn trong điểm của đồng bằng sông Thu Bồn và ở phía nam sông này, thuộc đất của huyện Duy Xuyên về sau. Như vậy biên giới phía nam của châu Hóa thời Trần không dừng lại ở Bắc sông chợ Cửi (Thu Bồn). Căn cứ vào bản cổ chỉ của tộc Trà làng Phú Xuân (thuộc tổng Quảng Hóa, phủ Duy Xuyên) lập ngày 21 tháng 9 năm Thái Đức 3 (1780), vốn là một tộc họ người Chăm ở lại khai thác đất đai cùng người Việt nơi vùng “tam giác châu” Ô Da – Thu Bồn. cho biết đến đến cuối thời Trần, do chiến tranh Chiêm – Việt, ông tổ tộc này phải bỏ chỗ ở cũ là làng La Vân (tức Phú Xuân về sau), chạy vào làng Đồng Dương (ở phía Nam sông Ly Ly), là thôn nhà của ông Chế Tịnh (một người Chăm khác) ở trọ, chúng tôi cho rằng biên giới phía nam của châu Hóa lúc bấy giờ có khả năng đến sông Ly Ly (Hương An)”[3: tr 42]. Và cũng theo Tiến Sĩ Huỳnh Công Bá đi đến nhận định rằng: “Trong buổi đầu quốc gia Đại Việt, Bắc Quảng Nam đã thuộc về Thuận – Hóa. Nếu Thuận Hóa là “phên dậu phía Nam” của nước Đại Việt thì huyện Điện Bàn chính là “phên dậu của phên dậu”, một thời làm “cột mốc biên giới” che đỡ cho cả Thuận – Hóa trong công cuộc tái thiết xây dựng, và một thời gian dài sau đó sẽ trở thành “hành lang quân sự” của những cuộc chiến tranh”.
Như vậy, biên giới phía Nam của Đại Việt thời Trần là sông Ly Ly ở phía Nam của huyện Điện Bàn (Quảng Nam ngày nay).
3.3 Thời Hồ
Để ổn định biên giới phía Nam do Champa trước kia thường xuyên đánh phá ở thời Trần mạt, Hồ Quy Ly muốn làm cho Champa suy yếu và thần phục nhà Hồ để tránh hậu họa về sau. Vì vậy năm 1402, nhà Hồ cho xây dựng con đường Thiên lý từ thành Tây Đô đến Hoá Châu, Đại Việt sử ký toàn thưchép: “Đời Hán Thương năm Thiệu Thành thứ 2 (1402), Nhâm Ngọ, tháng 3, sửa đường sá từ thành Tây Đô đến Hoá Châu, dọc đường đặt phố xá để truyền thư, gọi là đường thiên lý”.
Tháng 7 năm 1402, Hồ Quý Ly cử đại binh đi đánh Champa và thắng trận. Phủ biên tạp lục cho biết:“Vua nước ấy là Ba- Đích lại dâng đất Chiêm Động và Cổ Luỹ Động. Quý Ly nhận chia làm 4 châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, đặt An phủ sứ lộ Thăng Hoa, biên làm quân ngũ, khuyên dân nộp trâu thì cho quan tước để lấy trâu cấp cho dân di cư”
Theo như sự khảo cứu của Học giả Đào Duy Anh, trong Đất nước Việt Nam qua các đời, thì lộ Thăng Hoa nằm ở phía Nam sông Chợ Cửi đến sông Bến Ván tương đương với vùng đất Nam Quảng Nam ngay này. Cũng theo Ông thì châu Thăng là miền Thăng Bình và Duy Xuyên. Châu Hoa là miền Tam Kỳ. Ba huyện Lê Giang, Đô Hòa và An Bị của châu Thăng tương đương với ba huyện Lễ Dương tức huyện Thăng Bình, Huyện Duy Xuyên và Huyện Quế Sơn ngày nay. Châu Hoa thì tương đương với phủ Tam Kỳ thời Nguyễn, tương đương với huyện Hà Đông, tức thành phố Tam Kỳ ngày nay, miền nguồn Chiên Đàn và miền nguồn Hữu Bang. Châu Tư thì thuộc trong phạm vi của hai huyện Bình Sơn và Sơn Tịnh trong lưu vực sông Trà Khúc, ở miền Bắc tỉnh Quảng Ngãi, huyện Trì Bình ở dưới, huyện Bạch Ô ở trên. Châu Nghĩa trong phạm vi của lưu vực sông Vệ và huyện Mộ Đức hiện ở miền Đông Nam tỉnh Quảng Ngãi.
Như vậy dưới thời nhà Hồ, trong một thời gian biên giới về phía Nam của Đại Việt đã vượt qua sông Trà Khúc hơn 50km về phía Nam đến huyện Mộ Đức thuộc tỉnh Quảng Ngãi ngày nay. Nhưng sau đó trong khi Đại Việt bị quân Minh xâm lược thì Champa đã nhân cơ hội đó chiếm lại 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa.
3.4 Thời Lê sơ
Trong những đời vua đầu của thời hậu Lê, sau khi mới giành được độc lập, việc nội trị được ưu tiên hàng đầu nên trước những hành động quấy rối của Champa ở biên giới, vua Lê Nhân Tông chỉ cho quân đánh vào thành Đồ Bàn, bắt được vua Champa là Ba Đích Lại đưa về Thăng Long và lập cháu (gọi chú) của Ba Đích Lại là Maha Quý Lai lên thay chứ không lấy lại Chiêm Động Cổ Luỹ (4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa mà nhà Hồ đã sáp nhập trước đây).
Đến năm 1470, vua Champa là Bàn La Trà Toàn, một mặt cầu viện nhà Minh, mặt khác xuất 10 vạn quân ra cướp Hoá Châu. Để chấm dứt sự quấy phá của Champa, vua Lê Thánh Tông thân chinh đem 26 vạn quân đi đánh Champa. Vua cho vẽ bản đồ Champa để biết rõ những nơi hiểm yếu của vương quốc này, vua Trà Toàn bị đánh bại. Sau chiến thắng này, vua Lê Thánh Tông cho một số quân đóng tại kinh đô Champa chứ không rút hết về nước như trước nữa. Trong khi khi vua Lê Thánh Tông đánh vào kinh đô của Champa thì một viên tương của Champa là Bố Trì Trì đem quân chạy về phía Nam đèo Cả, tự lập làm Vua, xin sắc phong được nhà Lê đồng ý. Với ý định tạo nên sự yên ổn lâu dài ở phía Nam, vua Lê Thánh Tông cắt phần đất ven biển từ đèo Cù Mông tới đèo Cả (hay Đại Lãnh) lập nên một nước riêng gọi là nước Hoa Anh. Lại lấy phần thượng nguyên ở phía tây Hoa Anh – vùng Cheo Reo để Lập nước Nam Bàn.
Như vậy Chiêm Thành ngăn cách hẳn với Đại Việt bằng hai nước, tuy nhỏ nhưng cũng là tấm đệm từ miền núi ra đến biển. Điều này cũng được Lê Quý Đôn ghi lại ở Phủ biên tạp lục: “Tháng 2 đánh thành Chà – Bàn. Quân Thuận Hoá bắt sống được Trà Toàn. Tướng nước ấy là Bố Trì chạy đến Phan Lung, giữ đất ấy xưng vương, chỉ còn lại được 2 phần 5 đất nước, sai người vào cống. Bèn phong Bố Trì làm Chiêm Thành vương, lại phong Hoa Anh vương và Nam Bàn vương, chia làm 3 nước”.
Vua Lê cho những viên quan Champa đã đầu hàng giữ những chức vụ quan trọng đối với vùng đất mới. Ba Thái được cử làm Đại Chiêm đồng tri châu, Đa Thuỷ làm Thiêm tri châu. Vua có dụ: “Đại Chiêm và Cổ Luỹ trước là đất của ta, gần đây bị mất về nước Chiêm Thành, nay lấy lại được hết. Ai dám không theo lệnh thì chém trước tâu sau”. Vùng đất này được đặt làm đạo Quảng Nam, chia làm ba phủ, chín huyện. Các sở đồn điền cũng được lập ra để dân nghèo từ miền Bắc vào cùng với những kiều dân cũ đã có ở đó từ trước cùng khai khẩn, sinh sống.
Trong cuốn sách Vương quốc Champa của Giáo sư Lương Ninh có dẫn của Đại Nam nhất thống chí như sau “Trong cuộc hành quân này, quân Đại Việt còn vượt qua đèo Cù Mông, tiến tới núi Đá Bia (Thạch Bi). Núi Thạch Bi ở phía đông huyện Tuy Hòa, phía bắc đèo Cả, thuộc thị xã Tuy Hòa, tỉnh Phù Yên ngày nay. Núi này có một chi, đến bờ biển thành hai… có một khối đá lớn, quan đầu về phía đông như hình người… Vua Lê sai mài vách núi dựng bia đá để chia địa giới với Chiêm Thành”. Vậy thì phải chăng lãnh thổ Đại Việt về phía nam dưới thời Lê Thánh Tông kéo đến ngang núi Thạch Bi? Qua quá trình tìm hiểu như sau, theo như Đại Việt sử ký toàn thư cho biết “Tháng 3 ngày 1, hạ được thành Chà Bàn, bắt sống hơn 3 vạn người…”, “ngày mồng 2 vua thấy đã phá được thành Chà Bàn rồi, xuống chiếu đem quân về”, từ thành Chà Bàn đến núi Thạch Bi phải qua đèo Cù Mông, đi qua tỉnh Phú Yên và xuống gần hết tỉnh Phú Yên mới tới đèo Cả trong đó có núi Thạch Bi. Trong vòng một ngày quân Đại Việt không thể kéo quân đến nơi đây được. Đại Việt sử ký toàn thư như chúng ta đã biết là được ghi chép dưới thời Lê nên những sự ghi nhận trên là đáng tin cậy. Lý giải vì sao Đại Nam nhất thống chí lại cho chép vụ việc này thì Tiến Sĩ Huỳnh Công Bá cho rằng: “qua quá trình mưa gió đã bào mòn, lồi ra trên đỉnh núi một tảng đá bằng hoa cương không bị bào mòn trông giống như một tấm bia, sau đó người dân trong vùng đã thiêu dệt thành truyền thuyết rằng vua Lê Thánh Tông đã cho người mài đá và khắc chữ lên phiến đá đó để đánh dấu cương giới phía Nam của đất nước mà sau này Đại Nam nhất thống chí viết thời nhà Nguyễn đã có sự lầm lẫn đáng tiếc, đã ghi chép vụ việc này mà giáo sư Lương Ninh đã dẫn”. Vả lại giáo sư Lương Ninh cũng viết: “Với ý định tạo nên sự yên ổn lâu dài ở phía nam, vua Lê cắt phần đất ven biển từ đèo Cù Mông tới đèo Cả (hay Đại Lãnh) lập nên một nước riêng gọi là nước Hoa Anh.” Điều này cho thấy phần đất phía Nam đèo Cù Mông Đại Việt không hề quản lý, thì sự ghi chép của Đại Nam nhất thống chí về địa giới phía Nam với Chiêm Thành là núi Thạch Bi là sự lầm lẫn hết sức đáng tiếc.
Như vậy, đến thời Lê sơ biên giới Đại Việt kéo đến đèo Cù Mông. Các vua đời Lê, đặc biệt là vua Lê Thánh Tông không những đã lấy lại được vùng đất Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi ngày nay mà còn mang về cho lãnh thổ Đại Việt thêm phần đất Bình Định. Biên giới Đại Việt về phía Nam kéo dài đến đèo Cù Mông.
IV. Họ Nguyễn mở đất Đàng Trong
- Bối cảnh lịch sử
Sau cục diện Nam – Bắc triều kết thúc, hình thành cục diện Đàng Ngoài – Đàng Trong. Như vậy, đến giai đoạn này, quá trình mở rộng lãnh thổ của người Việt xuống phía Nam được thực hiện ở Đàng Trong thông qua những chính sách của các chúa Nguyễn.
Mở đầu cho công cuộc này, không thể không nhắc đến sự kiện: Năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hoá ở tuổi 34. Theo ông là những người bộ khúc( phụ tách địa phương) ở Tống Sơn và nhân dân xứ Thanh Hoa. Nguyễn Hoàng dựng dinh ở Ái Tử (Quảng Trị), lôi kéo được đông đảo nhân dân vào Thuận – Quảng với những chính sách ưu đãi, khoan hoà. Đại Nam thực lục tiền biên cho biết:“ Chúa vỗ về quân dân, thu dùng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng, được nhân dân mến phục, bấy giờ thường xuyên là chúa Tiên. Nghiệp đế dựng lên, thực là xây nền từ đấy”[29: tr 87].
Như vậy, từ những duyên cớ mà lịch sử, Nguyễn Hoàng với sự kiện vào trấn thủ ở vùng Thuận – Quảng, đã đặt những viên gạch đầu tiên trong sự nghiệp gây dựng nên xứ Đàng Trong. Dòng họ Nguyễn đã có công rất lớn trong việc khai phá vùng đất Nam Bộ mà trước đây là lãnh thổ của vương quốc Phù Nam.
Những nguyên do cho quá trình mở rộng về phía Nam của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong được giải thích như sau:
Thứ nhất, xuất phát từ cuộc chiến tranh Trịnh –Nguyễn. Đó là cuộc chiến tranh mà các chúa Nguyễn đã xác định là không thể tránh khỏi, sớm muộn gì cũng xảy ra và đã diễn ra thì với mức độ rất quyết liệt, tàn khốc. Phía Bắc chịu sức ép của Đàng Ngoài, phía Tây là rừng núi hoang vu, hiểm trở, phía Đông là biển cả bất trắc, không còn cách nào khác là phải tiến về phía Nam để xây dựng chổ đứng chân, phòng khi chúa Trịnh đánh vào và đồng thời biến đây thành nơi có thể cung cấp nhân tài, vật lực cho cuộc chiến. Có thể nói, đây là lý do quan trọng bậc nhất dẫn đến quá trình khai phá về phía Nam của các chúa Nguyễn.
Thứ hai, sự lớn mạnh vượt bậc đã khiến Đàng Trong như một người khổng lồ đã gò bó trong chiếc áo đã chật nên cần tìm một chiếc áo lớn hơn. Sự gia tăng dân số, sự phát triển kinh tế khiến nhu cầu mở đất của Đàng Trong trở nên cấp thiết. Nông nghiệp được xem là chỗ dựa lâu dài của Đàng Trong. Đất đai vùng Thuận – Quảng chật hẹp, không màu mở nên các chúa Nguyễn nhắm đến vùng đất phía Nam rộng lớn đất đai phì nhiêu, đã bị hoang hóa là một điều hiển nhiên.
Thứ ba, ngoài các nguyên nhân xuất phát từ nội tại đó, quá trình này còn được thúc đẩy thực hiện bởi những điều kiện khách quan thuận lợi. Sự suy yếu của Chân Lạp vào các thế kỷ XVI, XVII là một cơ hội thuận tiện để các chúa Nguyễn thực hiện quá trình mở mang lãnh thổ của mình. Bởi vùng Nam Bộ ngày nay, trước đây là lãnh thổ của vương quốc Phù Nam đã bị hoang hóa trở lại. Khi cộng đồng người Việt và người Chăm tới đây thì vùng đất này hầu như là một vùng đất hoang không có người ở. Đó là một nguyên nhân rất quan trọng để dẫn đến cuộc khai phá đất hoang về phía Nam của các chúa Nguyễn.
- Qúa trình Sáp nhập các tiểu quốc Champa vào xứ Đàng Trong
Năm 1558, người Chăm Hoa Anh thường xuyên quấy rối, cướp bóc dân cư người Việt làm ăn sinh sống ở đây, nên Nguyễn Hoàng sai Lương Văn Chánh tiến quân vào Hoa Anh, tới sông Đà Rằng đối phó với quân Champa, sáp nhập vùng đất này vào lãnh thổ xứ Đàng Trong.
Đến năm 1611, quân Champa ở Hoa Anh lại quấy nhiễu đánh phá, Nguyễn Hoàng sai Văn Phong vào Phú Yên đánh dẹp và thu phục tiểu quốc Hoa Anh vào lãnh thổ Đàng Trong. Mở rộng Đàng Trong từ đèo Cù Mông đến đèo Đại Lãnh. Năm 1653, vua Champa là Bà Tấm đem quân vào đòi lấy Phú Yên, chúa Nguyễn Phúc Tần sai Hùng Lộc Hầu làm thống binh đem 3.000 quân đi đánh, thu phục vùng đất Khánh Hòa ngày nay. Năm 1675, Người Champa thường xuyên cho quân đánh phá đất Phú Yên, Nguyễn Phúc Tần cho quân đánh, Vua Chăm là Bà Bật phải xin hàng, dâng đất cho chúa Nguyễn từ sông Phan Rang trở ra, Chúa Nguyễn đặt làm phủ Thái Ninh và dinh Thái Khang để trấn thủ.
Tháng 2 năm 1693, nhân vua Champa là Bà Tranh chủ động tấn công vào vùng Khánh Hòa ngày nay (tuyên bố bỏ lệ triều cống, “làm phản, hợp quân, đắp lũy, cướp giết cư dân ở phủ Diên Ninh), chúa Nguyễn Phúc Chu đã ra lệnh cho Nguyễn Hữu Cảnh chỉ huy quân đánh dẹp, sáp nhập vùng đất còn lại của Champa, lập nên phủ Bình Thuận. Như đã trình bày kể từ sau năm 1471 trở đi, Champa đã không còn tồn tại với ý nghĩa là một vương quốc độc lập nữa mà trở thành một đơn vị hành chính đặc biệt nhất của Đại Việt – một phủ có quyền tự trị tương đối và vẫn thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ với Đại Việt. Việc Champa suy yếu và lần lượt sáp nhập thống nhất vào Đại Việt là kết quả tất yếu của một quá trình, hình thành nên sự cố kết dân tộc, pha trộn bản sắc văn hóa giữa các cộng đồng dân cư cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam.
- Quá trình mở đất Nam Bộ của chúa Nguyễn
Vùng đất Đồng Nai được xem là vùng đất đầu tiền mà lưu dân Việt trên bước chân tiến vào khai phá Nam Bộ. Trước đó, Đồng Nai hầu như hoang vắng vào cuối thế kỷ XVI thì vào đầu thế kỷ XVII trở nên sôi động với sự xuất hiện của lớp cư dân mới mà chủ yếu là người Việt từ vùng Thuận Quảng di cư vào.
Nguyên nhân của hiện tượng xã hội này chính là cuộc chiến tranh tương tàn của hai dòng họ phong kiến Trịnh – Nguyễn. Cuộc giao tranh quyết liệt kéo dài 175 năm, trong đó có 45 năm đã diễn ra liên tiếp 7 trận đánh lớn cực kỳ ác liệt. Để phục vụ cho nhu cầu của cuộc chiến tranh giành giật quyền lợi này, đồng thời cũng để thỏa mãn như cầu xa hoa của giới quý tộc, các tập đoàn phong kiến Trịnh – Nguyễn thi nhau vơ vét cùng kiệt nhân lực, vật lực của dân chúng, gây nên cảnh đói khổ lầm than mọi nơi. Chỉ riêng xứ Đàng Trong, sự vơ vét bóc lột của phong kiến Nguyễn đã làm cho nhân dân vô cùng cơ cực lần than phải rời bỏ ruộng vườn làng mạc, phiêu tán đi khắp nơi để mưu cầu cuộc sống. Lê Quý Đôn ghi nhận “trong cõi đã xảy ra hạn và đói, dân phiêu bạt và chết đói rất nhiều”.
Chính vì vùng đất phía Nam là vùng đất của vương quốc Champa đang suy tàn, và xa hơn nữa là vùng đất sau này có tên là Đồng Nai – Gia Định, một vùng đất màu mỡ nhưng hầu như vô chủ là nơi thu hút mạnh mẽ lưu dân Việt đi tìm đất sống. Vì vậy làn sóng di dân ngày một dâng lên. Trong số lưu dân Việt đến Đồng Nai, ngoài những nông dân nghèo khổ, đói rách là thành phần chủ yếu, còn có những người trốn tránh binh dịch, sưu thuế, binh lính đào ngũ, các tù nhân bị lưu đầy, thầy lang, thầy đồ nghèo và cả những người giàu có nhưng vẫn muốn tìm đất mới để mở rộng công việc làm ăn, làm giàu thêm.
Những lưu dân Việt thuộc lớp tiên phong đi vào vùng đất mới Đồng Nai – Gia Định lập nghiệp làm thành nhiều đợt trước cả thời Trịnh – Nguyễn phân tranh nhưng dâng lên thành làn sóng mạnh mẽ hơn là vào cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII. Phần đông họ chọn phương thức tự động, đi lẻ tẻ, hoặc cả gia đình, hoặc những người khỏe mạnh đi trước tạo dựng cơ nghiệp rồi đón cả gia đình đến sau, hoặc một vài gia đình cùng cả xóm kết nhóm với nhau cùng đi. Phần lớn họ chọn thuyền buồm hay ghe bầu làm phương tiện di chuyển chính, bởi lúc bấy giờ di chuyển giữa các phủ miền Trung với Đồng Nai – Gia Định chủ yếu là đường biển, một số người phải trèo đèo lội suối đi đường Bộ, đi dần từng chặng một, đến một địa phưong ở lại một thời gian, thấy bám trụ được thì ở lại lập nghiệp, bằng không đi tiếp và lần hồi cũng tới vùng đất mới Đồng Nai.
Tiến trình nhập cư của lưu dân Việt vào vùng Đồng Nai – Gia Định từ lẻ tẻ rời rạc, dần dần có quy mô lớn hơn. Những lưu dân Việt từ việc lập những làng xóm nhỏ trên vùng đất Đồng Nai đã thôi thúc các chúa Nguyễn đặt những bước tiến lớn hơn trên vùng đất này.
Sự kiện quan trọng có ý nghĩa mở đầu cho mối quan hệ chính thức giữa Chân Lạp và Đàng Trong cũng như đối với quá trình mở đất của các chúa Nguyễn đó là cuộc hôn nhân ngoại giao giữa vua Chân Lạp là Chettha II với công chúa Ngọc Vạn vào năm 1620.
Đầu thế kỷ XVII, khi mà uy thế của chúa Nguyễn đã lan vào cả đất Nam Bộ thì việc tìm đến chúa Nguyễn như một cứu cánh đã xuất hiện đối với vương triều Chey Chettha (1618 – 1625) nhằm đối trọng với Ayuthaya.
Cuộc hôn nhân mang màu sắc ngoại giao giữa Chettha II với công chúa Ngọc Vạn vào năm 1620 là sự kiện có ý nghĩa xác lập cho mối bang giao giữa Chân Lạp và Đàng Trong một cách chính thức, đồng thời đặt dấu ấn cho công cuộc mở đất tới vùng Đồng Nai nói riêng và Nam Bộ nói chung của các chúa Nguyễn. Cuộc hôn nhân này đã mở ra nhiều sự thay đổi đối với vận mạng của Chân Lạp và đem đến cho Đàng Trong những bước tiến diệu kỳ trên con đường mở mang bờ cõi. Đó là những điều kiện vô cùng thuận lợi cho các chúa Nguyễn thực hiện công cuộc mở đất ở Đồng Nai nói riêng và Nam Bộ nói chung.
Những xúc tiến cho công cuộc mở đất của các chúa Nguyễn vào Gia Định, Mô Xoài, Đồng Nai được đẩy mạnh thực hiện ngay sau cuộc hôn nhân này. Sau đó là những giúp đỡ thường xuyên của chúa Nguyễn Phước Nguyên cho Chân Lạp. Thậm chí, chúa Nguyễn còn gửi cả quân đội và chiến thuyền đến giúp Chân Lạp chống lại các hoạt động chiến tranh và gây sức ép của quân Xiêm khiến cho liên minh giữa Chân Lạp và Đàng Trong ngày càng chặt chẽ hơn. Mặt khác, công chúa Ngọc Vạn, bấy giờ đã trở thành hoàng hậu của Chân Lạp, thường đề nghị với chồng để tạo điều kiện cho người Việt sang sinh sống, khai phá ở vùng Prey Nokor – Kas Krobei (vùng Sài Gòn, Bến Nghé sau này), Đồng Xoài, Mô Xoài (vùng Biên Hòa, Bà Rịa) vẫn đang còn bỏ hoang. Bà chính là cầu nối của mối quan hệ giữa Chân Lạp và Đàng Trong, đồng thời là nhân tố quan trọng trong những ngày đầu mở đất về phía Nam Bình Thuận của chúa Nguyễn. Đây chính là cơ sở thuận lợi từng bước hợp pháp hóa sự kiểm soát của mình đối với vùng đất đã được khẩn hoang.
Sự kiện nữa có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình xâm nhập vào đất Đồng Nai của chúa Nguyễn là việc mở trạm thu thuế ở Sài Gòn vào năm 1623.
Sự liên minh Đàng Trong – Chân Lạp ngày càng gắn bó, cùng với vai trò cầu nối của Ngọc Vạn khiến cho lưu dân người Việt vào làm ăn, sinh sống ở vùng đất này ngày càng đông. Trong điều kiện thuận lợi ấy, năm 1623, trên cơ sở có được sự thỏa thuận của vua Chettha II, chúa Nguyễn đã lập được sở thu thuế ở Krey Nokor (Sài Gòn), Kas Krobei (Bến Nghé) để đảm bảo quyền lợi và công việc làm ăn, sinh sống của người Việt; cử một đạo quân (quan, lính) đến đóng đồn, bảo vệ con đường giao thương giữa Đàng Trong với Chân Lạp và Xiêm.
Việc được lập một sở thu thuế và đóng đồn trên đất Đông Nam Bộ ngoài việc có ý nghĩa như là “sự thu hoạch” đối với những thành quả của người Việt đạt được, mà còn mang tính chất như là một sự xác lập chủ quyền nhất định của chúa Nguyễn ở một vùng đất “trái độn’ giữa Đàng Trong và Chân Lạp. Với đặc quyền này, cư dân người Việt đến Chân Lạp ngày một đông hơn do cảm giác yên tâm bởi đã có một sự bảo trợ của cả chính quyền Đàng Trong lẫn Chân Lạp với vai trò của bà hoàng hậu người Việt trên vùng đất mới.
Sau khi vua Chettha II mất vào năm 1628, thì vùng đất từ Prey Nokor (Sài Gòn) trở ra phía Bắc, bao gồm vùng thành phố Hồ Chí Minh, Biên Hòa, Bà Rịa – Vũng Tàu ngày nay, đã có nhiều người Việt đến sinh sống. Với những đóng góp của mình, có thể khẳng định chúa Nguyễn Phước Nguyên đã có vai trò như là người đặt những viên đá đầu tiên trên con đường Nam tiến vào đất Nam Bộ, tạo tiền đề cho sự thúc đẩy quá trình này ở các đời chúa sau.
Sự ra đi của vua Chettha II vô hình tạo nên nhiều thay đổi trong mối quan hệ giữa Chân Lạp và Đàng Trong, cũng như tiến trình khẩn hoang ở Đồng Nai của các chúa Nguyễn. Kể từ đây, cuộc khai hoang mở đất của các chúa Nguyễn vào Nam Bộ luôn gắn với sự xung đột trong chính quyền Chân Lạp.
Hai sự kiện tiếp theo có vai trò quan trọng nữa đối với quá trình mở đất này là hai cuộc can thiệp quân sự vào lãnh thổ Chân Lạp của các chúa Nguyễn đáp ứng lời thỉnh cầu của Chân Lạp nhằm giải quyết các tranh chấp nội bộ (năm 1658 và 1674) khiến thanh thế và vai trò của Đàng Trong ngày càng lên cao, Chân Lạp trở thành nước thần phục và phải cống nạp hàng năm.
Tiếp nối con đường mà chúa Nguyễn Phước Nguyên đã khai mở, chúa Nguyễn Phước Tần có vai trò thúc đẩy hơn nữa công cuộc mở đất vào Nam Bộ.
Năm 1658, theo sự cầu cứu của một trong số các phe phái trong triều đình Chân Lạp, chúa Nguyễn Phước Tần đã sai phó tướng dinh Trấn Biên là Nguyễn Phước Yến, Cai đội Xuân Thắng, Tham mưu Minh Lộc đem 3000 quân sang can thiệp, thiết lập lại trật tự cho Chân Lạp. Vua đang tại vị của Chân Lạp là Nặc Ông Chân (1642 – 1659) bị bắt bỏ vào cũi đem về nạp cho chúa. Chúa Nguyễn phong So làm vua Chân Lạp, hiệu là Batom Reachea (1660 – 1672) và buộc Chân Lạp phải có nghĩa vụ triều cống cho Đàng Trong. Như vậy, mối quan hệ giữa Chân Lạp và Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phước Tần có sự thay đổi quan trọng – từ bang giao bình đẳng chuyển sang mối quan hệ thần phục. Điều này đã tạo điều kiện rất lớn cho quá trình di dân của người Việt vào đất Đồng Nai để tiếp tục khai khẩn đất hoang. Người dân Việt chuyển cư đến vùng Gia Định, Mô Xoài, Đồng Nai ngày càng đông và dần chiếm đa số.
Tình trạng rối ren trong triều đình Chân Lạp lại tiếp tục diễn ra sau khi Batom Reachea bị giết vào năm 1672. Hoàng tộc bị chia thành nhiều nhóm, phái, có phái muốn dựa vào Xiêm, có phái dựa vào chúa Nguyễn để giành ngai vàng. Nặc Nộn (Nặc Non) thỉnh cầu chúa Nguyễn trong khi Nặc Ông Đài cầu cứu quân Xiêm để chống lại với Đàng Trong. Vào năm 1674, chúa Nguyễn Phước Tần sai cơ đạo dinh Thái Khang là Nguyễn Dương Lâm đưa quân sang Chân Lạp để hỗ trợ cho Nặc Nộn với lí do: “Nặc Nộn là phiên thần, có việc nguy cấp, không thể không cứu”. Thắng trận, chúa Nguyễn Phước Tần phong cho Nặc Thu (em ông Nặc Đài) làm vua chính, đóng ở thành Long Úc, Nặc Nộn làm vua thứ, đóng ở thành Sài Gòn và buộc hai tiểu vương quốc hàng năm có nghĩa vụ triều cống. Chúa Nguyễn đã dần trở thành lực lượng thiết lập lại trật tự ở Chân Lạp khi có nội biến xảy ra. Chân Lạp có nghĩa vụ triều cống hàng năm cho chúa Nguyễn và tạo điều kiện cho lưu dân người Việt vào làm ăn, sinh sống.
Như vậy “quá trình xâm nhập vào vùng đất Đông Nam Bộ từ năm 1620 đến năm 1674 đã thu đạt được kết quả như ý: vùng đất từ Pray Kor trở ra cho đến biên giới Champa (bao gồm thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa và Biên Hòa ngày nay) đã trở thành “lãnh địa riêng của chúa Nguyễn với rất nhiều người Việt đến sinh sống và lập nghiệp.” Có thể nói, thế lực của chúa Nguyễn ở Đồng Nai – Gia Định đã tăng lên mạnh mẽ, điều đó khuyến khích làn sóng định cư của người Việt trên vùng đất mới.
Qua quá trình khảo cứu, chúng tôi cho rằng điểm dừng chân đầu tiên của lưu dân Việt là Mô Xoài (Bà Rịa), địa đầu của vùng đất mới, nằm trên trục giao thông của đường bộ từ Bình Thuận vào Nam, lại nằm trên đường biển có vịnh biển Ô Trạm rất thuận lợi cho tàu thuyền cập bến. Đây là một vùng đất rộng lớn từ Long Hương, Phước Lễ đến Đất Đỏ ngày nay. Theo Trịnh Hoài Đức trong Gia định thành thông chí thì lưu dân Việt đã vào Mô Xoài từ đời chúa Nguyễn Hoàng (1558- 1613), chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613 – 1635 ), chúa Nguyễn Phúc Lan (1635 – 1648 ). Đến nửa sau thế kỷ XVII số di dân người Việt đến vùng này khá đông, trong đó có một số di dân Thiên Chúa giáo trốn chạy việc cấm đạo. Những người này đã lập ra một họ đạo ở Xích Lam gần Đất Đỏ.
Từ Mô Xoài, Bà Rịa, các thế hệ di dân tự do người Việt, với phương tiện di chuyển chủ yếu là thuyền, ghe, xuồng, theo thuỷ triều ngược, dòng sông Đồng Nai, và cả đi bộ, dọc theo sông, tiến dần vào vùng Đồng Nai. Các điểm định cư sớm nhất của họ là: Nhơn Trạch, Long Thành, An Hoà, Bến Gỗ, Bàn Lân, cù lao Phố, cù lao Tân Chánh, cù lao Ngô, cù lao Kinh, cù lao Tân Triều … Như vậy, tiến trình nhập cư của cư dân người Việt vào đất Đồng Nai – Gia Định đã diễn ra liên tục trong suốt gần một thế kỷ.
Hệ quả của quá trình này, Trên cơ sở của một lực lượng di dân, khai khẩn vùng đất phương Nam từ trước nên chúa Nguyễn Phúc Chu đã cử Nguyễn Hữu Cảnh – một tướng tài giỏi kinh lược phía Nam vào mùa xuân năm Mậu Dần (1698).
Chuyến kinh lược này, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh đã thực thi một việc vô cùng quan trọng; đó là thiết lập một hệ thống tổ chức bộ máy hành chính ở vùng đất mới. Cụ thể là: “ông lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng nên dinh Trấn Biên (lỵ sở nay là thôn Phước Lư), lập xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn (quận sở nay gần Tân Đồn). Mỗi dinh lập ra chức Lưu thủ, Cai bạ và Ký lục để cai trị. Về vệ thuộc thì có hai ty Xá, Lại để làm việc, quân binh thì có tinh binh cơ đội thuyền thủy bộ và thuộc binh để hộ vệ. Ngàn dặm đất đai, dân hơn 4 vạn hộ, chiêu mộ lưu dân từ châu Bố Chính đến lập nghiệp, lập ra thôn xã phường ấp, phân định địa giới, ruộng đất, lập ra tô thuế, xây dựng đinh điền bạ tịch. Con cháu người Hoa nếu ở Trấn Biên được quy lập thành xã Thanh Hà, còn ở Phiên Trấn thì lập thành xã Minh Hương rồi cho phép vào hộ tịch.”
Đất đai lúc Nguyễn Hữu Cảnh kinh lược (kể toàn phủ Gia Định) mở rộng 1000 dặm, dân số hơn 4 vạn hộ, trung bình một hộ 5 người thì ở toàn phủ Gia Định lúc này có đến 200.000 người. Ông chiêu mộ lưu dân từ Bố Chánh (Quảng Bình) đưa vào Nam cho ở đông đúc, thành lập xã, thôn, phường, ấp, chia đặt địa giới, khai khẩn ruộng đất, định lệ thuế, tô và dung, đồng thời lập sổ đinh, sổ điền. Với việc xác lập chủ quyền bằng cách thiết trí hệ thống hành chính các cấp phủ, huyện, phường, xã, thôn, ấp. Lưu dân người Việt từ chỗ là kiều dân đã cùng với các tộc người khác trở thành thần dân của chúa Nguyễn.
Chuyến kinh lược này, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh đã thực thi một việc vô cùng quan trọng: Ông lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình dựng dinh Phiên Trấn, mỗi dinh đặt chức Lưu thủ, Cai bộ và Ký lục để quản trị, nha thuộc có hai ty xá – lại để làm việc; quân binh thì có cơ, đội, thuyền, thuỷ bộ binh và thuộc binh để hộ vệ.
Việc làm của Nguyễn Hữu Cảnh có tác động lớn đến vùng đất mới. Vùng đất rộng, người thưa, dân cư gồm những người tha phương cầu thực đã chung sống trở thành cộng đồng. Về mặt pháp lý, với bộ máy hành chính cụ thể, người dân chịu sự cai quản của nhà nước, sống theo trật tự xã hội và có điều kiện phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, Nguyễn Hữu Cảnh thực thi chính sách dân tộc độc đáo, khai thác tiềm năng kinh doanh của cộng đồng người Hoa và ổn định về xã hội cho họ yên tâm cùng với lưu dân Việt phát triển vùng đất Đồng Nai bằng cách lập đơn vị hành chánh riêng. Cụ thể là lập xã Thanh Hà ở Trấn Biên (Biên Hoà), Minh Hương (Sài Gòn) ở Phiên Trấn.
Trên cơ sở khẳng định vùng lãnh thổ, chúa Nguyễn bắt đầu thực hiện những chính sách khẩn hoang và phát triển kinh tế trên đất Nam Bộ nói chung và Đồng Nai nói riêng. Qua cuộc kinh lược của Nguyễn Hữu Cảnh vào năm 1698 đã biến vùng đất Đồng Nai – Gia Định thực sự thuộc chủ quyền và đặt dưới sự quản lý của chúa Nguyễn. Nó đẩy nhanh quá trình khai khẩn đất hoang và phát triển kinh tế ở vùng đất này. Những việc làm này đã đặt nền tảng xã hội cơ bản. Từ đây Đồng Nai – Gia Định trở thành lãnh thổ chính thức của nước Việt Nam.
Sau khi lấy được Đồng Nai – Gia Đinh, các chúa Nguyễn không chỉ dừng lại ở đó. Năm 1756, Nặc Nguyên dâng hai phần đất Tầm Bôn và Lôi Lạp để chuộc tội khiến dinh Long Hồ có thêm vùng đất Tân An và Gò Công. Năm 1757, Nặc Tôn (con Nặc Nguyên) dâng đất Tầm Phong Long (khoảng giữa Nam Châu Đốc và Bắc Cần Thơ) để tạ ơn chúa Nguyễn đã sắc phong Phiên vương cho mình. Đồng thời, vị vua Chân Lạp này cũng cắt đất 5 phủ Vũng Thơm (Hương Úc), Cần Vọt (Cần Bột), Châu Rùm (Trực Sâm), Sài Mạt, Linh Quỳnh cho Mạc Thiên Tứ để đền ơn giúp đỡ (5 phủ này được chúa Nguyễn cho sáp nhập vào Hà Tiên). Tiếp đó, sự di cư của lực lượng người Hoa dưới sự dẫn đầu của Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch vào năm 1679 đã bổ sung một lực lượng cư dân Đàng Trong trên vùng đất Nam Bộ, tạo điều kiện để hình thành nên các đơn vị hành chính của người Việt sau đó. Sự sáp nhập Hà Tiên vào Đàng Trong cũng diễn ra tương tự như vậy. Chúa Nguyễn đã luôn đợi đến thời điểm chín muồi, khi dân cư có sự tập trung; sự khai phá, xây dựng và phát triển các vùng đất mới ở một mức độ nhất định thì mới thiết lập nên các đơn vị, tổ chức hành chính của mình.
Như vậy, đối với Chân Lạp, các cuộc chiến mà chúa Nguyễn thực hiện xuất phát ban đầu từ việc thỉnh cầu của các phe phái trong triều đình Chân Lạp, rồi sau đó nhằm bảo vệ lãnh thổ của mình và tiến đến cho dân khai phá những phần đất bỏ hoang còn lại mà Chân Lạp không hề có sự quản lý và khẳng định chủ quyền ở đây, mặt khác các vua Chân Lạp tự nguyện dâng đất cho các Chúa Nguyễn mà trên thực tế những vùng đất này đã được người Việt khai phá, lập ra các làng xã và cơ quan thu thuế của riêng mình.
Với cuộc khai phá những vùng đất này, cương vực Đàng Trong đã kéo dài phía Nam từ đèo Cù Mông (Bình Định) đến tận mũi Cà Mau, đem lại cho chúa Nguyễn một vùng lãnh thổ rộng lớn, đủ sức sánh vai với Đàng Ngoài của chúa Trịnh. Cả một dải đất rộng lớn từ Quảng Bình cho đến mũi Cà Mau ngày nay đã thống nhất vào lãnh thổ Đại Việt.
Sau khi hoàn tất công cuộc mở rộng khai phá đất đai ở Nam Bộ, Đàng Trong đã có thêm các đơn vị hành chính mới: dinh Phú Yên (1611), dinh Thái Khang (1653), dinh Bình Thuận (1697), dinh Trấn Biên, dinh Phiên Trấn (1698), trấn Hà Tiên (1708), dinh Long Hồ (1732).
Như vậy, Đàng Trong lúc bấy giờ có 10 dinh và 1 trấn: các dinh Bố Chính, Quảng Bình, Lưu Đồn (nay ở tỉnh Quảng Bình), dinh Cát (ở Quảng Trị), Chính dinh còn gọi là Đô thành Phú Xuân (Thừa Thiên Huế), dinh Quảng Nam (còn gọi là Dinh Chiêm), dinh Phú Yên (1611), dinh Bình Khang (Khánh Hòa, 1653), dinh Bình Thuận (1697), dinh Trấn Biên (Biên Hòa, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, 1698), dinh Phiên Trấn (Sài Gòn, Gia Định, Long An, 1698), trấn Hà Tiên được hưởng cơ chế tự trị và dinh Long Hồ (các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, 1732).
Ngoài ra, với công cuộc khai phá đất đai, Đàng Trong cũng xuất hiện những đơn vị hành chính mới như châu Định Viễn ở dinh Long Hồ, đạo Đông Khẩu (Sa Đéc), đạo Tân Châu ở Tiền Giang, đạo Châu Đốc ở Hậu Giang (An Giang), đạo Kiên Giang (nay thuộc Kiên Giang), đạo Long Xuyên, đạo Trường Đồn (Mỹ Tho).
Qúa trình mở rộng lãnh thổ của người Việt xuống phía Nam không chỉ dừng lại ở thời chúa Nguyễn. Khi thống nhất giang sơn, lập ra nhà Nguyễn (1802), dưới thời Minh Mạng đã có những cuộc chiến tranh với nước phía Tây lúc bấy giờ là Chân Lạp. Đã có lúc Minh Mạng đã thôn tín toàn bộ lãnh thổ của nước này. Tuy nhiên, do sự phản kháng của nhân dân Chân Lạp, dưới sự giúp đỡ của chính quyền Xiêm, cộng thêm sự cai trị hà khắc của một bộ phận quan lại người Việt đã dẫn đến việc nước Đại Nam không thể sáp nhập vùng đất Chân Lạp lâu dài. Sau khi thực dân Pháp vào đô hộ nước ta đã phân chia Nam Kỳ với lãnh thổ như hiện nay. Chấm dứt việc người Việt mở rộng cũng như thôn tính bờ cõi ở phía Nam.
V. Kết luận
Trong bản thảo cuốn sách Đất nước Việt Nam qua các đời được in ở miền Bắc của học giả Đào Duy Anh có chương nói về biên giới Việt Nam qua các đời, nhưng đến sau năm 1975 khi tái bản ở miền Nam, Ông xem lại thì đã bỏ chương này đi vì thấy tài liệu chưa được đầy đủ. Chứng tỏ đây là một vấn đề hết sức khó khăn cần phải dày công nghiên cứu mới có thể khái quát, hệ thống hóa vấn đề này một cách đúng đắn nhất. Trong phạm vi của một bài viết, tác giả với tư cách là người đi sau được thừa hưởng các công trình nghiên cứu công phu của thế hệ đi trước lấy làm cảm kích. Mặc dù đã có nhiều cố gắng và rất có ý thức trong việc cập nhật kết quả mới nhất của giới khoa học nước nhà, song cũng không thể tránh khỏi những nhược điểm và thiếu sót. Kiến thức là vô hạn, sự hiểu biết của người viết là hữu hạn, mong sẽ nhận được sự đóng góp từ độc giả.
HOA ANH ĐÀO (NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét