Nhạc cổ truyền đối với chúng ta
là một loại nhạc xưa được truyền tụng cho tới ngày nay. Tân nhạc là loại nhạc
mới.
Mới ở đây là nghĩa gì? Có phải là
loại nhạc soạn theo nhạc ngữ Âu Mỹ, hay nói một cách khác, là các bài nhạc được
soạn trong khoảng 70 năm nay (từ năm 1930) theo kiểu Tây phương nghĩa là có hòa
âm, dùng các nốt nhạc như Do-Re-Mi-Fa-Sol-La-Si-Do mà không dùng Hò, Xự, Xang,
Xê, Cống, Líu như trước thời Pháp thuộc? Có những bài ca như Vọng cổ, Tứ Đại
Oán, và rất nhiều bài bản được sáng tác cho hát cải lương miền Nam có phải là
cổ nhạc hay tân nhạc, vì các bài này được sáng tác từ khoảng đầu thế kỷ thứ 20
trở đi? Vấn đề "Cổ" và "Tân " hoàn toàn tương đối tùy theo
quan niệm, nhận xét của người nghiên cứu.
Nếu chúng ta nhìn vào lịch sử âm nhạc thế giới, thì giai
đoạn âm nhạc cận đại của nhạc ngữ Tây phương bắt đầu từ cuối thế kỷ thứ 19. Do
đó, ranh giới định rõ cổ và tân nhạc rất là lu mờ.
Để tránh mọi ngộ nhận phức tạp, chúng ta tạm gọi như sau.
Để tránh mọi ngộ nhận phức tạp, chúng ta tạm gọi như sau.
"Cổ nhạc" là loại nhạc được lưu truyền từ ngàn xưa đến
nay theo phương pháp truyền khẩu, dính liền vào đời sống hàng ngày của người
dân quê hay thị thành hoàn toàn tiêm nhiễm văn hóa Đông Phương.
"Tân nhạc" dùng để chỉ loại nhạc được các nhạc khí Tây
Phương trình bày như nhạc phòng trà, nhạc được sáng tác theo phương pháp Tây
Phương.
Trở về nhạc cổ truyền Việt Nam, phần đông người Việt thường lầm lẫn giữa "Vọng cổ", "Cải lương", và "Cổ nhạc". Chúng tôi thường nghe người mình nói với nhau khi đi xem đại nhạc hội do các hội tổ chức cho người Việt hải ngoại xem : "Chà! kỳ này hát toàn tân nhạc không, còn cổ nhạc sao không thấy đâu hết !", mặc dù trong chương trình buổi đó có nhiều tiết mục dân ca, hát bội, vv ... Đa số người Việt hải ngoại chỉ biết có "Vọng cổ" mà thôi và chỉ thích nghe một bài Vọng cổ, chứ ngoài ra không để ý đến những bài khác dùng trong hát cải lương. Những người đặt tuồng lại không thấu triệt vốn liếng cổ nhạc nên số bài bản được sử dụng trong các tuồng cải lương ngày nay ở hải ngoại rất bị giới hạn, và số nghệ sĩ cải lương chỉ ráng học 6 câu xuống cho thật mùi là ăn tiền, chứ không cần học hỏi thêm bài bản như các nghệ sĩ tiền bối của giai đoạn 1940.
Với mục đích trình bày cùng độc giả một kho tàng phong phú của nền cổ nhạc Việt Nam, và một số vốn đáng kể về bài bản trong hát cải lương, cũng như sự hình thành về sự phát triển của bài ca Vọng cổ, chúng tôi tạm
Trở về nhạc cổ truyền Việt Nam, phần đông người Việt thường lầm lẫn giữa "Vọng cổ", "Cải lương", và "Cổ nhạc". Chúng tôi thường nghe người mình nói với nhau khi đi xem đại nhạc hội do các hội tổ chức cho người Việt hải ngoại xem : "Chà! kỳ này hát toàn tân nhạc không, còn cổ nhạc sao không thấy đâu hết !", mặc dù trong chương trình buổi đó có nhiều tiết mục dân ca, hát bội, vv ... Đa số người Việt hải ngoại chỉ biết có "Vọng cổ" mà thôi và chỉ thích nghe một bài Vọng cổ, chứ ngoài ra không để ý đến những bài khác dùng trong hát cải lương. Những người đặt tuồng lại không thấu triệt vốn liếng cổ nhạc nên số bài bản được sử dụng trong các tuồng cải lương ngày nay ở hải ngoại rất bị giới hạn, và số nghệ sĩ cải lương chỉ ráng học 6 câu xuống cho thật mùi là ăn tiền, chứ không cần học hỏi thêm bài bản như các nghệ sĩ tiền bối của giai đoạn 1940.
Với mục đích trình bày cùng độc giả một kho tàng phong phú của nền cổ nhạc Việt Nam, và một số vốn đáng kể về bài bản trong hát cải lương, cũng như sự hình thành về sự phát triển của bài ca Vọng cổ, chúng tôi tạm
chia bài tiểu luận này làm ba phần:
- Vọng cổ là gì?
- Vọng cổ là gì?
- Cải lương là gì?
- Cổ nhạc là gì?
VỌNG CỔ LÀ GÌ?
Ai sáng tác bài "Vọng
cổ"? Theo đa số các nhà nghiên cứu Việt Nam, ông Sáu Lầu (tên thật là Cao Văn
Lầu), người gốc gác tỉnh Bạc Liêu, nhân nghe trống điểm văng vẳng từ
một chòi canh gần thôn xóm nhà, thấy tâm hồn xúc động mà nẩy ra ý nhạc viết
thành bài "Dạ Cổ Hoài Lang" (nghĩa là nghe trống
canh khuya nhớ chồng).
Ông Sáu Lầu, sau khi chung sống
với vợ 8 năm mà không có một mụn con, ba má của ông mới bắt ông phải kiếm một
người vợ khác để hy vọng có con nối dõi tông đường. Vào năm 1920 ông Sáu Lầu
mới dùng cây đờn cò để sáng tác bài "Hoài Lang"
(nhớ tới người
yêu của mình). Sau đó ông Sáu Lầu mới đờn bài này cho ông Tần Xuân
Thơ (gọi là
Thống, thầy tuồng của gánh Tân Minh Kế ở Bạc Liêu) nghe. Chính ông
Tần Xuân Thơ viết lời cho bài "Hoài Lang" được sửa lại là "Dạ Cổ hoài lang", nhịp hai. Khi hát cải lương
thành hình trong thập niên 20, bài "Dạ Cổ hoài lang" được các ông
thầy tuồng đưa vào các vở cải lương và dần dần thay thế bản Tứ đại oán.
Chuyện gia đình của ông Sáu Lầu được thu xếp ổn thỏa. Vợ chồng ông Sáu Lầu được yên bề và sau đó hai người sanh được mấy mụn con. Ông Tần Xuân Thơ mới đề nghị cùng ông Sáu Lầu đổi tên bài lại thành "Vọng
Chuyện gia đình của ông Sáu Lầu được thu xếp ổn thỏa. Vợ chồng ông Sáu Lầu được yên bề và sau đó hai người sanh được mấy mụn con. Ông Tần Xuân Thơ mới đề nghị cùng ông Sáu Lầu đổi tên bài lại thành "Vọng
cổ" (tức nhớ chuyện dĩ vãng).
Khoảng năm 1925-1927, bài "Dạ Cổ hoài lang" được phổ biến rộng rãi
trong giới cải lương. Nhịp hai không đủ chỗ để viết lời cho nên bài "Vọng
cổ" được tăng lên thành nhịp 4. Bài "Tiếng nhạn kêu sương" của
ông Tư Chơi (Huỳnh
Thủ Trung) có thể là bài đầu tiên viết theo bản "Dạ Cổ hoài
lang nhịp tư".
Thầy Giác là người khởi xướng bài "Dạ Cổ hoài lang nhịp 8 " vào
khoảng nă m 1929-1930. Nhưng phải đợi tới năm 1935-37 nghệ sĩ Năm Nghĩa chính
thức phổ biến trong giới yêu cải lương qua bài "Văng vẳng tiếng chuông chùa".
Bài "Vọng cổ nhịp 16" được chính thức thành hình vào năm 1938 qua
tiếng đờn của nhạc sĩ Bảy Hàm với tiếng hát của cô Tư Sạng trong bài "Tình
Mẫu Tử". Nhưng phải đợi vài năm sau (sau thế chiế n thứ 2) với tiếng hát
điêu luyện của nghệ sĩ Út Trà Ôn trong bài "Tôn Tẩn Giả Điên", bài
"Vọng cổ nhịp 16" mới được phổ biến rộng rãi hơn.
Từ năm 1954 trở đi, bản "Vọng cổ nhịp 32" xuất hiện qua các dĩa há t
do các hãng dĩa Asia, Hồng Hoa, Lam Sơn, Hoành Sơn xuất bản. Bài "Đội Gạo
Đường Xa" của Kiên Giang do nghệ sĩ Hữu Phước hát được kể là tiêu biểu
nhứt.
Từ năm 1964, soạn giả Viễn Châu mới đưa tân nhạc vào tạo thành loại hát
"tân cổ giao duyên". Cách đưa tân nhạc vô bài Vọng cổ bắt buộc phải
rút ngắn bản Vọng cổ làm bài Vọng cổ 6 câu còn lại 4 câu thôi.
Về sau có người đưa bài Vọng cổ lên thành Vọng cổ nhịp 64 và Vọng cổ nhịp 128
nhưng không thành công. Cho nên tới hôm nay, sau gần 50 năm bản Vọng cổ nhịp 32
vẫn còn "ăn khách" và được phổ biến mạnh mẽ.
Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam ,
chưa bao giờ chúng ta được thấy một bài nhạc biến chuyển và phổ biến rộng rãi
trên toàn lãnh thổ Việt Nam
và trong lòng của đại đa số người Việt trong cũng như ngoài nước. Tuy là một
bài buồn nghe muốn "đứt ruột, nhức xương ", làm cho người xa nhà, nhớ
quê hương, mà cũng có thể làm cho người lính hy sinh tánh mạng nơi chiến trường
để giữ vững bờ cõi, hay nung nấu lòng phục quốc của người di tản hiện nay.
Thường thì bài buồn dùng âm điệu buồn, bài vui dùng âm điệu vui như chúng ta
biết trong cách sử dụng viết nhạc. Đây là một trường hợp ngoại lệ, mà nếu có
dịp, tôi sẽ phân tích tường tận hơn.
Vọng cổ chỉ là một bài trong phần nhạc cải lương. Biết hát vọng cổ chưa có thể
nói là biết hát cổ nhạc, biết hát cải lương. Hát vọng cổ theo loại nhạc thính
phòng hay loại nhạc "xa-long" (tiếng Pháp là "Salon") hoàn toàn
khác với hát vọng cổ trong cải lương. Người hát vọng cổ theo loại nhạc thính
phòng cố gắng hát cho thật hay trong cách ngân nga, luồng giọng cho ngọt, nhịp
nhàng cho chắc. Người đệm đàn cho bài vọng cổ trong loại nhạc thính phòng chỉ
cần giữ nhịp cho chắc, và có thể nhấn vuốt tùy theo tài nghệ của người đánh
đờn. Hát vọng cổ trong cải lương có khi chỉ hát hai câu, 4 câu, hoặc 5 câu, ít
khi hát 6 câu từ đầu đến cuối. Sự khác biệt giữa hai cách hát rất quan trọng.
Có người chỉ biết hát hoặc hoặc đờn vọng cổ cho loại nhạc thính phòng mà không
thể hát hay đờn vọng cổ cho hát cải lương.
CẢI LƯƠNG LÀ GÌ?
Ngày nay chúng ta ai ai cũng ghiền nghe và coi hát cải lương, vìcải lương, sau
trên 80 năm xuất hiện, hình thành và phát triển ở miền Nam trước và trên toàn
lãnh thổ sau đó, phản ảnh đời sống hàng ngày của chúng ta, nói lên những
gìmàchúng ta không thể nói được.
Nhà khảo cổ và nghiên cứu hát bội và hát cải lương Vương Hồng Sển, trong quyển
"Hồi ký 50 năm mê hát: 50 năm cải lương",
tủ sách Nam Chi, do Phạm Quang Khai, cơ sở xuất bản năm 1968, Saigon, không
chắc chắn ngày khai sanh của bộ môn hát mới này. Ở Saigon, có tổ chức lễ kỷ
niệm 50 năm thành lập hát cải lương vào năm 1966, nghĩa là hát cải lương được
mở mắt chào đời vào năm 1916. Vì không có tài liệu viết trên giấy trắng mực
đen, nên không thể khẳng định ngày giờ chắc chắn của sự xuất hiện của cải lương.
Theo sự hiểu biết của tôi, hát cải lương đầu tiên được xuất hiện dưới hình thức
ca tài tử tại tư gia khoảng năm 1915. Các tài tử còn ca các bài cũ kiểu
"độc thoại " và chưa có ra bộ tịch gì hết. Lúc đó đã có thấy xuất bản
một quyển "Bản đờn tranh và bài ca" do
Phụng Hoàng Sang soạn, và Đinh Thái Sơn xuất bản, Saigon ,
in lần thứ ba, năm 1907. Như thế có đoán là lần in thứ nhất có thể vào khoảng
1900. Qua quyển này chúng ta được biết vào thời đó, giới cầm ca hát đờn những
bài sau đây : "Lưu Thủy Trường", "Phú Lục", "Bình Bán
chấn", "Xuân Tình", "Bình Bán Vắn", " Bát Man Tấn
Cống", "Tứ Đại", Phụng Hoàng", "Nam Xuân",
"Nam Ai", "Tứ Đại Cảnh". Có người cho rằng ông thầy Ký Trần
Quang Quờn đã sáng tác bài "Tứ Đại Oán" và "Văn Thiên
Tường". Điều chắc chắn là ông Trần Quang Quờn đã sáng chế nhiều cây đờn
như cây đại ba tiêu, tiểu ba tiêu, cây song thương màngày nay không thấy được
phổ biến. Có thể nói đây là giai đoạn tượng hình thai nghén của hát cải lương.
Bắt đầu năm 1916, loại ca đối thoại xuất hiện, nhiều người hát chung, và gọi đó
là "Ca ra bộ". Bài hát điển hình nhất làbài "Tứ đại oán "
(Bùi Kiện thi rớt ) phát khởi từ Vũng Liêm (Vĩnh Long) tại nhà thầy Phó Mười
Hai. Tại Vĩnh Long, chúng ta có thể nghĩ là nơi phát xuất của hát "ca ra
bô", giai đoạn phôi thai của hát cải lương. Ngoài ông Phó Mười Hai, mỹ
danh Tống Hữu Định, ông Trần Quang Quờn, ông Phạm Đăng Đàng là một danh cầm đất
Vĩnh là những người đóng góp đắc lực cho sự hình thành của hát cải lương sau
này.
Phải đợi tới gần dứt thế chiến thứ nhứt, dưới chế độ toàn quyền Albert
Sarrault, dân được chính phủ bảo hộ nới rộng cho phép lập hội hè hát dân ca nên
một số chủ bút thân hào phú hộ tụ tập nhau lại (Huyện Của, Bùi Quang Chiêu, Đốc
Phủ Bảy, Hồ Văn Trung, Nguyễn Chánh Sắt, Đặng Thúc Liêng, vv ...) bè n chia
nhau các vai tuồng, và lên sân khấu lần đầu, hát quyên tiền giúp Pháp chống
Đức. Do sự cải tân từ nghệ thuật hát bội, mới nẩy sinh ra danh từ "Hát
bộ" nghĩa là hát ra bộ qua vở tuồng "Gia Long tẩu quốc, Pháp Việt
nhứt gia" diễn tại nhà Hát Tây Saigon ngày 16 tháng 11, 1918.
Từ đó, ở miền Nam bắt đầu mọc lên như nấm các nhóm ca ra bộ, rồi cải lương như
ở Vĩnh Long có thầy Phó Mười Hai Tống Hữu Định, ở Sa Đéc có gánh xiệc pha ca ra
bộ rồi cải lương của André Thận, ở Sóc Trăng có gánh hát của thầy thuốc Trần
Văn Minh, ở Mỹ Tho có gánh của Thầy Nă m Tú, ở Chợ Lớn có gánh thầy Mười Vui, ở
Saigon có gánh Tân Thinh, ở Long Xuyên có gánh Tập Ích Ban (của Vương Văn Có),
vv ...
Suy đi nghĩ lại, điểm mà ai cũng đồng ý là hát cải lương bắt nguồn từ hát bội. Lúc
ban sơ, các tuồng hát đều dựa theo tuồng cổ của hát bội như "Trảm Trịnh
Ân", "Ngưu Cao tảo mộ", "Thoại Khanh Châu Tuấn". Ở hát
bội, câu ca không cần bị gò bó theo nhạc đàn, tuy rằng căn bản phải gìn giữ
đúng với âm điệu, do đó diễn viên được tự do sáng tạo, được phát huy sở trường,
câu hát cao hay thấp, mau hay chậm, ngân nga hay kéo dài không bị giới hạn, chỉ
cần phải hòa với nhạc đàn ở những nhịp chính là được. Còn trong cải lương, câu
ca phải đúng với điệu đàn, phải hợp với giai điệu và tiết tấu. Để tránh những
cử chỉ tượng trưng quá nhiều và hát hay thét lớn cùng những tuồng tích xưa, hát
cải lương với những bài ca mùi mẩn, với nhừng tranh dàn cảnh huy hoàng, với
những tuồng gần với xã hội Việt Nam, với lời văn đơn giản của ngôn ngữ thường
ngày, với những động tác tự nhiên đã đổi mới nghệ thuật diễn xuất, nhạc điệu.
Về âm nhạc thì bỏ những lối hát nam, hát khách, bỏ luôn lối xướng, bạch, hường,
tán, chỉ giữ và phát triển thêm lối nói lối cho thật mùi hợp với tiếng đờ n tài
tử. Số vốn ca nhạc của sân khấu cải lương ngày từ buổi đầu cũng đã rất phong
phú.
Về điệu "Lý ", có
"Lý Ngựa Ô", "Lý Con Sáo ", "Lý Giao Duyên ", "Lý Ngựa Ô Nam", "Lý Thập Tình ", "Lý Chuồn Chuồn".
Về ngâm thì có ngâm Sa Mạc, Bồng Mạc, Ngâm Sổng, hoặc lối
ngâm mới trong cải lương áp dụng theo dây Oán .
Có ba bài Nam : "Nam
Xuân", "Nam Ai "
và "Nam Đảo", bốn bài oán
như "Tứ Đại Oán", "Phụng Hoàng", "Giang Nam", "Phụng Cầu ", và bốn bài oán phụ như
"Văn Thiên Tường", "Bình Sa Lạc Nhạn ", "Bộc Thủy Ly Tao", và "Thanh Dạ Đề Quyên".
Ngoài ra những cảnh vui thì có 5 bản vui và ngắn như "Bình Bán Vắn ", "Tây Thi
Vắn", "Khổng Minh Tọa Lầu",
"Mẫu Tầm Tử", "Long Hổ Hội".
Sáu bài Bắc lớn như "Lưu Thủy Trường", "Phú
Lục", "Bình Bán chấn",
"Xuân Tình", "Tây Thi", "Cổ Bản".
Bảy bài lớn dùng trong nhạc lễ như "Xàng Xê", "Ngũ Đối Thượng", "Ngũ Đối Hạ", "Long Đăng ", "Long Ngâm ", "Vạn Giá ", "Tiểu Khúc ".
Đó là chưa kể 8 bài ngắn khác dùng trong nhiều trường hợp
vui buồn khác nhau như "Ái Tử Kê
", "Chiêu Quân",
"Trường Tương Tư", "Đường Thái Tôn ", "Bát Man Tấn Cống", "Duyên Kỳ ngộ", "Ngự Giá ", "Kim Tiền Bản", và sau cùng là 10
Liên Hoàn (Phẩm Tuyết, Nguyên Tiêu, Hồ
Quản g, Liên Hoàn, Bình Nguyên, Tây Mai, Kim Tiền, Xuân Phong, Long Hổ, Tẫu Mã).
Giai đoạn tiên khởi của cải lương bắt đầu bằng gánh hát của thầy André Thận vào
năm 1917. Đến năm 1918, gánh André Thận rã, thầy Nă m Tú ở Mỹ Tho mới gom góp
các tài tử của André Thận lập nên gánh Thầy Năm Tú, sắm thêm y phục, tranh
cảnh, và có Trương Duy Toản là thày soạn tuồng đàng hoàng.
Lúc đầu là phụ diễn trước khi chiếu phim hát bóng. Các tài tử đều ngồi trên bộ
ván gõ, và mặc quốc phục chỉnh tề, vừa ca vừa ra bộ. Thầy Năm Tú có công trong
việc đưa nhạc cải lương đến với mọi tầng lớp người Việt trên toàn cõi xứ Việt
Nam qua các dĩa hát 78 vòng mà những người từ bát tuần trở lên đều nhớ mỗi khi
nghe dĩa hát bát đầu bằng cầu "Đây là bạn hát cải lương của Thầy Năm Tú ở
tại Mỹ Tho, hát cho dĩa Pathé Phono nghe chơi"
Từ đó trở đi, các gánh đua nhau mọc lên như nấm. Nào gánh Tập Ích Ban, gánh Tân
Thinh Ban, gánh Văn Hý Ban, gánh Võ Hý Ban, gánh Phước Cương, gánh Trần Đắc,
gánh Huỳnh Kỳ, gánh Phụng Hảo, vv ... đã tạo cho sân khấu cải lương một nền
móng vững chắc. Những tài tử cải lương gạo cội tiền bối người còn người mất (hiện nay chỉ còn có bà Phùng Há, bà Bảy Nam
ở Saigon) như các bà Phùng Há, Năm Phỉ, Bảy Nam, Hai Nhỏ, Ba Út, Năm Sa
Đéc, Thanh Tùng, Kim Thoa, và các nam nghệ sĩ như Từ Anh, Năm Châu, Bảy Nhiêu,
Năm Nghĩa, Tám Danh, Ba Du, vv… đã đưa nghệ thuật diễn xuất cải lương từ chỗ sơ
khai đến chỗ toàn hảo.
Từ năm 1938 đến năm 1945, nhóm Kim
Thoa của Tư Chơi và gánh Kim Chung tìm cách pha nhạc Tây vào câu ca bài bản cổ
Việt.
Đến giai đoạn hồi cư (1946-47), hát
cải lương xuất hiện trở lại và chỉ đem tuồng cũ ra diễn lại mà thôi.
Từ năm 1950 trở về sau, cải lương
lại pha thêm đấu kiếm, đánh võ, đánh chưởng, vừa ca vừa hát giọng Tàu (Hồ Quãng), giọng Âu Mỹ, rồi lại sinh ra
loại tân cổ giao duyên.
Tuồng tích cải lương được phân chia ra nhiều loại : tuồng tàu, tuồng dã sử,
tuồng chiến (gánh hát của Bảy Cao),
tuồng La Mã, Phù tang, tuồng xã hội, tuồng chưởng, tuồng hồ quãng, vv...
Giai đoạn 50-60, những nghệ sĩ hữu
hạng và thượng thặng mà đa số chúng ta đều biết tiếng như là Út Trà Ôn (từ trần
năm 2001), Thành Được (hiện sống ở San Jose, Hoa Kỳ), Thanh Tú (hiện ở Saigon,
Việt Nam, Hùng Cường (từ trần ở California, Hoa Kỳ), Dũng Thanh Lâm (hiện sống
ở California, Hoa Kỳ), vv ... về phía nam, và Út Bạch Lan (hiện sống ở Saigon),
Thanh Nga (từ trần), Bạch Tuyết (hiện sống ở Saigon), Ngọc Giàu (Saigon), Thanh
Thanh Hoa (Saigon), Ngọc Nuôi (Hoa Kỳ), Kim Chưởng (Saigon), vv ... về phía nữ.
Một số hề nổi tiếng như Ba Vân (từ trần), Sáu Đước (gánh Tân Đồng Ban, từ
trần), Tư Rọm (gánh Việt Hùng Minh Chí, từ trần), Hề Trường, Hề Tỵ (gánh Tân
Hí, Mộng Vân, Phát Thanh), Lê Tám (gánh Hoa Sen), Hề Phúc Lai, Hề Tư Vững, Hề
Giác, Hề Minh, Hề Hai Vinh,vv ...là những người đã đem sức đem hơi ra chọc được
tiếng cười dòn tan của khán giả. Tất cả các danh hề kể trên đã sang bên kia thế
giới.
Từ năm 1970 trở đi, các nghệ sĩ trẻ như Minh Phụng, Minh Cảnh, Tấn Tài, Chí Tâm
(hiện sống ở Hoa Kỳ), Vương Kiệt, Lệ Thủy, Hương Lan (sống ở Hoa kỳ), Phượng
Liên (hiện sống ở Hoa kỳ) vv ... nối tiếp con đường đã vạch sẵn của các bậc
tiền bối.
Tại miền Nam
trước 1975 có trên 50 gánh hát lưu diễn quanh năm. Ngày nay số gánh hát vẫn
tương đương và tiếp tục phát triển nghệ thuật cải lương ở Việt Nam, trong khi ở
hải ngoại ngành cải lương không còn thu hút khán giả nữa, và các nghệ sĩ cải
lương đã phải tìm một nghề khác để mưu sinh.
CỔ NHẠC LÀ GÌ?
Cổ nhạc, nói chung, bao gồm nhiều loại nhạc khác nhau: nhạc cung đình, nhạc tôn
giáo, nhạc thính phòng, nhạc tuồng (hát
bội, chèo, cải lương), nhạc dân gian từ bài hát ru con, các loại đối ca,
đến loại hò đưa linh. Nói một cách khác, cổ nhạc là nhạc của người dân Việt từ
thời lập quốc đến giai đoạn hiện đại do người Việt sáng tác theo truyền thống
truyền khẩu. Trong phạm vi bài này, tôi không thể tạm gác một bên các loại nhạc
đồng bào thiểu số vì không thể kê khai nhạc của 54 sắc tộc sống trên xứ Việt
ngư người Thái, Mông, Mường, Mán, Thổ, Tày, Dao, Ra-đê, Ba-na, Mnong, Sê Đăng,
Ê Đê, Chàm, vv...
Nhạc cung đình được Lương Đăng phỏng
theo nhạc cung đình nhà Minh bên Trung quốc vào thế kỷ thứ 15. Đến thời nhà
Nguyễn (1802-1945), nhạc cung đình gồm các loại : Giao nhạc, Miếu nhạc, Ngũ Tự
nhạc, Đại Triều nhạc, Thường Triều nhạc, Cứu Nhựt nguyệt giao trùng nhạc, cung
trung chi nhạc, Yến nhạc, văn nhạc, võ nhạc do nhiều dàn nhạc như đại nhạc,
tiểu nhạc với số nhạc công rất đông. Đó là chưa kể một số điệu vũ như văn vũ,
võ vũ, tứ linh vũ, hoa đăng vũ, bát man tấn cống vũ, vv …
Nhạc tôn giáo gồm có nhạc Khổng giáo
bây giờ không còn nữa (chỉ còn nghe tại Đài Loan và Đại Hàn mà thôi ); nhạc
Phật Giáo rất phong phú với các điệu niệm, tán, tụng đầy nhạc tính; nhạc Cao
Đài đặc biệt miền Nam trên điệu Nam (Nam Xuân, Nam Ai, Oán), và tất cả các loại
nhạc dính liền với các tế lễ như chầu văn, hầu văn, rỗi bóng, lên đồng, nhạc đám
ma.
Nhạc thính phòng (tạm gọi là thính phòng theo nghĩa Tây phương),
là một bộ môn rất được ưa chuộng tại Việt Nam . Có ba loại nhạc thính phòng
đặc thù của ba miền : miền Bắc có "Hát
Ả Đào", miền Trung có "Ca
Huế ", và miền Nam có "Đàn
Tài Tử ". Hát ả đào còn gọi là "Ca Trù ", "Hát Cô
Đầu" không còn được thịnh hành tại miền Bắc vì không phù hợp với hoàn cảnh
hiện tại mặc dù đã được chấn hưng từ 20 năm nay. " Ca Huế ", với các
bài Nam Ai, Nam Bằng, Tứ Đại Cảnh, 10 bài ngự vẫn còn được ưa thích. "Đàn
Tài Tử " được bành trướng mạnh mẽ tại miền Nam
với các đại hội liên hoan được tổ chức tại các tỉnh miền Nam (Tân An, Mỹ Tho, Bạc Liêu).
Chính "Đàn Tài Tử " đã đóng góp rất nhiều cho sự hình thành nhạc hát
cải lương.
Nhạc dân gian Việt Nam rất giàu. Miền Bắc có biết bao
nhiêu dân ca đã làm sống lại những nét đẹp của phong cảnh, của phong tục nghìn
xưa như loại hát quan họ Bắc Ninh với phong tục kết bạn, ngủ bọn (liền anh,
liền chị), hát thi hát lấy giải; rồi hát trống quân, hát giậm, hát phường vải,
hát ví, hát xoan, cò lả, hội sim. Ngoài ra còn có hát xẩm. Miền Trung có hò
sông Mã, hò mái nhì, mái đẩy, mái sấp, hò hụi, hò nện, các điệu lý như lý mười
thương, lý con sáo, lý giao duyên. Trong Nam những điệu hò thay đổi từng miền,
từng vùng như Hò Đồng Tháp, hò Bạc Liêu, hò Bến Tre, hò lơ, hay các điệu lý như
Lý Ngựa Ô, lý chuồn chuồn, lý con khỉ Đột, lý dĩa bánh bò, lý che hường, vv ...
Hầu hết các điệu lý, hò, đối ca đều dựa trên thể thơ lục bát rất đặc biệt Việt
Nam. Dân ca Việt Nam ,
nhờ vào những cuộc hát thi lấy giải và óc sáng tạo nhạy bén mà ngày nay có trên
mấy ngàn bài được phổ biến khắp nơi.
Tôi hy vọng rằng, qua bài tiểu luận này, quý bạn đọc sẽ có một khái niệm đại
cương về thế nào là "Vọng cổ", thế nào là "Cải lương",
thế nào là "Cổ
nhạc". Biết được nguồn gốc nhạc Việt là một điều cần thiết nhứt
là cho kiến thức văn hóa cho mỗi người trong chúng ta lúc phải bị lìa xa quê
hương. Hiểu được nhạc mình, biết qua nhạc người, dung hòa hai nền nhạc Âu và
Việt để đừng bị mất gốc mất rể và có thể dạy dỗ con cháu thuộc thế hệ sau. Tự
hào nhạc Việt, cũng như tự hào tiếng nói Việt, văn hóa Việt là nung nấu chí khí
quật cường bất khuất của dân tộc Việt, là nuôi dưỡng tình yêu quê hương, tình
thương dân tộc để xứng đáng là con cháu dòng dõi Lạc Hồng.
Ngọc thăm anh! Ngày cuối tuần có chương trình giao lưu cùng bạn bè không anh? Chúc anh luôn mạnh khỏe, nhiều niềm vui anh nhé!
Trả lờiXóaAnh có dùng facebook không? Sang đó anh gõ tên là tìm được Bình Nguyên ngay anh à!