Chủ Nhật, 27 tháng 4, 2014

SAIGON THÁNG 4-1975

Những Ngày Cuối Cùng Của Sài Gòn
Winfried Scharlau / Phan Ba dịch

Phần 1


Lời người dịch : Tiến sĩ Winfried Scharlau (1934 – 2004) là một nhà báo, tác giả và sử gia người Đức. Ông là phóng viên chiến trường trong thời gian của cuộc Chiến tranh Việt Nam. Ông đã từng bị thương ở gần vĩ tuyến 17. Năm 1974, chiếc máy bay trực thăng chở ông đã đáp trúng mìn. Winfried Scharlau là một trong các nhà báo Phương Tây cuối cùng rời Việt Nam trong tháng Tư năm 1975.

* * *
Sài Gòn sợ chiến tranh hơn là sợ những người cộng sản. Mặt trận đã tiến đến gần; vào ngày 21 tháng Tư, Xuân Lộc thất thủ, pháo đài cuối cùng chận đường tiến quân vào thủ đô của các sư đoàn Bắc Việt từ phía Đông.

Tiếng “womp-womp-womp” của pháo binh, như Michael Herr sau này sẽ chuyển tải lại tiếng động đặc biệt đó một cách thơ mộng-to tiếng trong quyển Dispatches, đã có thể nghe được suốt ngày đêm. Nhưng tiếng “dit-dit-dit” của súng cá nhân, ngoại trừ vài ngày trong lần tấn công vào dịp Tết [Mậu Thân] 1968, đã dung tha cho người dân của Sài Gòn. Cho tới bây giờ, người Sài Gòn đã sống qua được chiến tranh; còn hưởng lợi từ nó nữa, và hưởng thụ những gia vị của một “xã hội Honda”, cái mà bây giờ có nguy cơ bị cuộc chiến phá hủy.

Về quân sự thì cuộc chiến đã ngã ngũ. Sau khi chiến dịch tấn công mùa xuân bắt đầu trên vùng núi, sau khi mất Ban Mê Thuột và Kontum, Tổng thống Thiệu và bộ tham mưu của ông đã hạ lệnh rút lui, điều đã dẫn tới bỏ chạy và hỗn loạn.
Chỉ còn những phần nhỏ của một quân đội được trang bị hiện đại gồm hơn nửa triệu người là còn muốn đứng ra chiến đấu. Lần di tản hỗn loạn ra khỏi vùng đồi núi chỉ thể hiện rõ cuộc khủng hoảng trong nội bộ của quân đội Sài Gòn. Tinh thần chiến đấu của quân lính đã gãy gục trong những tháng trước đó. Từ khi Mỹ cắt giảm viện trợ tài chính, từ khi ai trong miền Nam cũng đã hiểu, rằng Hoa Kỳ không cung cấp vũ khí và tiền tỉ dollar vô giới hạn nữa, và cũng không sẵn sàng hỗ trợ thêm một lần nữa với không quân và quân đội trong trường hợp khẩn cấp, chậm nhất là từ mùa thu 1974 thì con người, quân nhân và người dân thường, ai cũng chỉ muốn cứu lấy chính mình, và trước hết là việc đó. Người Việt nhìn thấy điều không thể tránh khỏi đang tiến đến gần. Khác với người Khmer trong Phnom Penh cách đó còn chưa tới 300 kilômét, những người ngay cả sau khi đại sứ quán Mỹ đã di tản cũng còn chiến đấu trên đường phố cho tới kết cuộc cay đắng cuối cùng, đa số người Việt nhìn thấy sự an toàn trong bỏ chạy. Ai còn muốn liều mạng sống của mình cho một việc đã thất bại rồi? Sự hỗn loạn đi cùng với lần sụp đổ của Nam Việt Nam có nguyên nhân sâu xa của nó trong nhận thức và lý trí của tập thể.

Vào ngày Xuân Lộc thất thủ, Nguyễn Văn Thiệu, tổng thống của Việt Nam Cộng Hòa, bảo đảm và đại diện cho trật tự cho tới giờ phút đó, tuyên bố từ chức. Vào buổi tối, ông đã thổ lộ niềm cay đắng của mình về nước Mỹ trong một bài diễn văn trên truyền hình. Thiệu lên án bộ trưởng bộ ngoại giao Mỹ Henry Kissinger đã không nhận ra, rằng hiệp định Việt Nam do ông ta thương lượng trong tháng Giêng 1973 đã dẫn miền Nam đi tới chỗ chết. “Ai cũng nhận ra điều đó, nhưng Kissinger thì không. Các cường quốc có lợi ích chung. Chúng tôi không có gì để hy sinh ngoài đất nước nhỏ bé này.” “Họ bán đứng Việt Nam cho người cộng sản”, Thiệu nói người Mỹ. “Thái độ vô nhân đạo của Hoa Kỳ là thái độ của một cường quốc trốn tránh trách nhiệm của mình.” Tổng thống Richard Nixon, Thiệu nói tiếp theo sau đó, đã “hứa trên giấy là sẽ giành cho đất nước mọi sự giúp đỡ cần thiết về quân sự và kinh tế trong trường hợp miền Bắc tấn công.” Giới hạn sự giúp đỡ của Mỹ là một hành động vô nhân đạo và đã dẫn tới cuộc rút lui khủng khiếp đó và tới nhiều tổn thất. “Tôi không bao giờ tin rằng”, Thiệu nói và khóc, “một người như Kissinger mà lại đưa dân tộc chúng tôi tới một số phận đáng sợ như vậy.”

Sài Gòn cảm động lắng nghe người tổng thống đã từ chức đó. Những xúc cảm mà ông biểu lộ trong lần xuất hiện cuối cùng này, điều mà nhiều người không hề nghĩ rằng ông có, đã để cho một sự thiện cảm nhất định nhú mầm. Nhưng đặc biệt là quyết định đi lưu vong của ông đã tạo hy vọng cho một lần ngưng bắn mới. Hà Nội và Mặt trận Giải phóng đã yêu cầu lật đổ Thiệu và “bè lũ” của ông như là điều kiện tiên quyết cho các đàm phán. Ngay tới Quốc Hội Mỹ cũng tuyên bố rằng chừng nào mà Thiệu còn nắm quyền thì chiến tranh sẽ kéo dài cho tới chừng đó. Bây giờ thì dường như đã có một lối thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng. Phó tổng thống Trần Văn Hương 71 tuổi tạm thời nhận lấy quyền lãnh đạo ở Sài Gòn. Người kế nhiệm, Thiệu cũng đã thông báo trước để lý giải cho lần từ chức của mình, sẽ đề nghị ngưng bắn và đàm phán.

Dường như Sài Gòn lại có hy vọng mới. Những người làm việc cho người Mỹ hay cho một sứ quán của Phương Tây bao vây từ sáng cho tới tối những phòng lãnh sự để nhận thị thực cho họ và gia đình. Chạy trốn là giải pháp của một thiểu số, ngay cả khi những cảnh từ biệt đầy xúc động trước cổng vào phi trường có quyết định hình ảnh chung cho tới đâu đi chăng nữa. Người Mỹ vẫn còn chưa tỏ dấu hiệu, rằng họ đã sẵn sàng cho một cuộc di tản đông người. Phần lớn người dân trong phần còn lại của nhà nước Nam Việt Nam, cái bây giờ chỉ còn bao gồm những vùng đất hẹp quanh Sài Gòn và các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, hy vọng vào một điều kỳ diệu: hy vọng vào một tín hiệu đầy bí mật, cái có thể sẽ làm câm lặng pháo binh cộng sản đã vào vị trí có thể bắn tới Sài Gòn từ lâu, và dừng xe tăng lại, để trao tiếng nói cuối cùng cho các chính trị gia và nhà ngoại giao.

Rằng Phnom Penh đã bị Khmer Đỏ chiếm trước đây vài ngày, rằng chiến tranh đã tới gần cho tới mức có thể cảm nhận được, những việc đó đã không thể bóp nghẹt niềm hy vọng đang nhú mầm. Nỗi lo sợ trước trận đánh cuối cùng đã để cho ảo tưởng nở hoa. Kết cuộc của Sài Gòn là một chiến thắng của ảo tưởng.

Đội ngũ các nhà báo, những người bây giờ có thể thực hiện các chuyến đi ra chiến trường thật thuận tiện vào ban ngày, vì chiến tranh đã tiến gần tới mức có thể nghe được, được người Mỹ mời tới dự một cuộc họp trên quán rượu ở sân thượng của khách sạn cao tầng “Caravelle”. Thay cho các thông tin về chính trị và diễn tiến cuộc chiến là những chỉ thị “mật” cho trường hợp khẩn cấp, cho lần di tản bằng trực thăng. Có một chỗ tập trung được quy định trước cho các nhà báo, ở gần văn phòng UPI, gần cảng sông, có thể nhanh chóng tới đó được từ các khách sạn lớn “Caravelle”, “Continental” và “Majestic”. Tín hiệu, các nhà báo được tin tưởng thông báo, sẽ được phát qua radio vào ngày X. Trong trường hợp khẩn cấp, đài phát thanh của quân đội Mỹ, phát tin tức “every hour on the hour”, sẽ thêm vào câu: “The temperature is 105 degrees and rising”, tiếp theo sau đó là bài “I am dreaming of a white Christmas” của Bing Crosby. Người ta sẽ chờ quý bà, quý ông nhà báo tại địa điểm tập trung với nhiều nhất là một món hành lý.


Phần 2
Trong khi giới nhà báo tranh luận về các lựa chọn, ở lại Sài Gòn và trải qua lần quân đội Việt Cộng tiến quân vào, hay để cho chở đi bằng máy bay và chấm dứt nhiệm vụ của họ ở Việt Nam với câu chuyện di tản, thì các nhà ngoại giao của đại sứ quán Mỹ hy vọng có thể tránh được cuộc di tản như là một kết cuộc nhục nhã, giống như bỏ chạy. Thông tin từ hai nguồn đến với Graham Martin sếp của đại sứ quán Mỹ, gợi lên ý nghĩ phía cộng sản sẵn sàng đàm phán: từ nhóm Hungary của ICCS, Ủy ban Kiểm soát Quốc tế, và từ đại sứ quán Pháp.

Chính sếp CIA ở Sài Gòn đã tự mình bắt liên lạc với các sĩ quan Hungary. Thomas Polgar xuất thân từ một gia đình Hungary đã di cư sang Mỹ. Từ người đồng hương sang người đồng hương, người ta tin cậy thông báo rằng Hà Nội quan tâm tới một “giải pháp Lào”, để tránh một trận chiến trên đường phố ở Sài Gòn. “Giải pháp Lào”, đó là một chính phủ trung lập, bao gồm các nhân vật của “lực lượng thứ ba”, phe đối lập yếu ớt và bị coi thường cả một thời gian dài ở Sài Gòn, và tất nhiên là với sự hỗ trợ về ngoại giao của Liên bang Xô viết, Pháp và Liên hiệp Anh.

Nguồn thứ hai, dường như xác nhận các thông tin của người sếp CIA, bắt nguồn từ đại sứ quán Pháp – mà trong đó Jean-Marie Merillon, trong tinh thần của de Gaulle, đã tự mình tin rằng “Grande Nation” thêm lần nữa sẽ nhận được một vai trò lịch sử trong khoảnh khắc chiến bại của Mỹ. Merillon thông báo cho đại sứ quán Mỹ và một nhóm nhỏ các nhà báo, mà tiêu chuẩn của họ là có khả năng sử dụng tiếng Pháp một cách thanh lịch, rằng người cộng sản thông qua tiếp xúc với người Pháp đã đưa ra “giải pháp Lào”: tước quyền “bè lũ Thiệu”, thành lập một chính quyền trung lập, muốn hòa bình, dưới quyền “Big Minh” và ngưng chiến trước cửa ngõ Sài Gòn, để tạo cơ hội cho một hội nghị bốn bên bàn thảo một trật tự chính trị mới ở Nam Việt Nam.

Vòng vây bao quanh Sài Gòn càng siết chặt lại bao nhiêu thì các cố gắng đàm phán ngừng bắn của các chính trị gia và nhà ngoại giao càng tuyệt vọng bấy nhiêu. Vào ngày 26 tháng Tư, buổi chiều lúc ba giờ, Thiệu rời Sài Gòn tới Đài Loan. Kể từ lúc từ chức, ông cần năm ngày để xếp đồ đạc vào va li. Người dân Sài Gòn có một tưởng tượng thật chính xác về những gì đã được đóng vào trong đó.

Đài phát thanh của Mặt trận Giải Phóng từ chối lời đề nghị ngừng bắn của phó tổng thống Trần Văn Hương. Hương đại diện cho một “chế độ Thiệu không có Thiệu”. Một chính phủ trung lập phải được thành lập và dẫn đầu bởi “một nhân vật thật sự yêu chuộng hòa bình”. Và quân nhân Mỹ, hơn 5000 người, phần lớn là sĩ quan trong bộ tham mưu của DAO, Defense Attache’s Office hay cũng được gọi là “Lầu Năm Góc phương Đông”, phải rời đất nước này, như là điều kiện tiên quyết.

Vào ngày 26 tháng Tư, một ngày thứ bảy, vào cái ngày mà Thiệu rời bỏ đất nước, Quốc Hội đã họp trong một ngôi nhà tối tăm hôi mốc ở khu cảng, để nhất trí ủy quyền cho phó tổng thống Hương tự chọn một người kế nhiệm theo ý muốn của ông, không cần quan tâm tới các quy định của hiến pháp Nam Việt Nam. Trần Văn Lắm, chủ tịch thượng viện, theo hiến pháp lẽ ra là người kế đến. Nhưng là “người của Thiệu” thì ông không có cơ hội được phía cộng sản chấp nhận là “một người thật sự yêu chuộng hòa bình”.

Dương Văn Minh, được gọi là “Big Minh” vì có thân hình to lớn, cần phải là người tổng thống mới. “Big Minh” đã đóng một vai trò chủ chốt trong lần lật đổ Ngô Đình Diệm năm 1963 và qua nhiều năm trời đã đứng vào phía đối lập với Thiệu. Không ai biết rõ là phe đối lập này thật ra là bao gồm những ai. Nhưng hầu như tất cả mọi người đều tin chắc rằng “Big Minh” có thể cứu thoát Sài Gòn trong thời điểm nguy cấp.

Đại sứ Pháp và Mỹ tin là đã giật dây để cho “Big Minh” bước ra hoạt động. Vào tối ngày chủ nhật, Graham Martin thuyết phục thành công người tổng thống được bổ nhiệm, không cương quyết yêu cầu giới quân đội Mỹ rút quân ngay lập tức. Khoảng cùng thời gian đó, Jean-Marie Merillon vào gặp đại diện phe cộng sản, sau hiệp định ngừng bắn 1973 đang ở trong khu vực an ninh của phi trường Tân Sơn Nhứt của Sài Gòn, để tự mình thăm dò cơ hội của một “chính phủ hòa bình Big Minh” qua sếp của phái đoàn, đại tá Võ Đông Giang, một con người khó tính, giống như một cái máy nói không có xúc cảm.

Merillon được thông báo cần phải gấp rút; người Mỹ phải rút lui ngay lập tức; phải tước quyền “bè lũ Thiệu” và thay thế ở hàng đầu bởi những người ái quốc yêu hòa bình. Tuy vậy, viên đại tá bất thân thiện đó không trả lời cho câu hỏi mang tính quyết định: liệu một chính phủ do Big Minh đứng đầu có được chấp nhận như là đối tác để đàm phán một giải pháp chính trị hay không.

Mặc dù không có được sự chắc chắn cuối cùng này, Martin, Merillon và những người đi theo “Big Minh” vẫn bắt đầu làm việc để cứu thoát Sài Gòn ra khỏi một cuộc chiến và cứu thoát Phương Tây khỏi nỗi nhục nhã của một lần đầu hàng vô điều kiện. Sự lạc quan của họ được nhiều người chia sẻ, chính là những nhà quan sát chính trị đó, những người chịu ảnh hưởng trực tiếp của các nhân vật chính, tự biến mình trở thành những người đồng lõa, và tin tưởng vào những cảm nhận cá nhân ít hơn là vào các phân tích của những người giật dây.

Lần trao quyền lực từ Hương sang “Big Minh” được dự định vào chiều ngày thứ hai, 28 tháng tư. Hàng ngày, “Airlifter”, máy bay vận tải phản lực của Không quân Mỹ, đến Sài Gòn để chở “những người bị nguy hiểm đặc biệt”. Khoảng 5000 người Việt rời đất nước mỗi ngày. Cảnh chen lấn và xô đẩy của những người tìm chốn tỵ nạn trước tòa đại sứ quán Mỹ hầu như không còn thể điều chỉnh được nữa. Những người muốn chạy trốn cảm thấy một sự khẩn cấp gây tuyệt vọng. Xe tăng cộng sản đã đứng trước cửa ngõ Sài Gòn, và mặc dù vậy, các cơ quan lãnh sự Mỹ vẫn khăng khăng yêu cầu giữ đúng quy trình nhập cảnh phức tạp. Tuy vào lúc này phần lớn các quốc gia Phương Tây đã di tản các đại sứ quán của họ và quẳng các dự trữ rượu mạnh ra thị trường với giá vứt đi, người Mỹ, được dẫn đầu bởi Graham Martin và Thomas Polgar, vẫn còn tin có thể trì hoãn được chiến dịch di tản đường không quy mô lớn đã được lập kế hoạch, vì một giải pháp chính trị bắt đầu hiện hình, cứu Sài Gòn thoát khỏi sự hoảng loạn và khốn cùng của một cuộc chạy trốn.

Vào sáng chủ nhật, hai giờ trước khi mặt trời mọc, quân đội cộng sản bắn vài hỏa tiển vào nội thành, rơi xuống gần đại sứ quán Đức ở vùng ranh giới giữa Sài Gòn và Chợ Lớn, khu phố người Hoa, và gây ra một vụ cháy lớn kinh hoàng. Từ hơn ba năm nay, Sài Gòn không còn bị bắn phá trực tiếp nữa. Các hỏa tiển này, đi kèm theo đó là một tiếng nổ thật lớn, đã để cho người dân nhận thức được rằng màn cuối cùng của cuộc bao vây, đánh chiếm thủ đô, đã bắt đầu.

Chỉ các nhà ngoại giao có nhiều quyền lực và ảnh hưởng trong đại sứ quán Mỹ và Pháp là vẫn không muốn đọc những dấu hiệu ở trên tường đó. Các tín hiệu của phía bên kia cũng có thể được hiểu, rằng Hà Nội chỉ muốn thúc giục tăng tốc quá trình chính trị. Người cộng sản, Graham và Merillon cam đoan lẫn nhau như vậy, sẽ “mất thể diện”, nếu như họ cố tiến quân đánh chiếm thành phố Sài Gòn ba triệu dân trước con mắt của thế giới. Qua nhượng bộ chính trị, cả hai người đều có ý như vậy, có thể giành được một thỏa hiệp hợp lý từ những người cộng sản.

Trong những năm dài của chiến tranh, những lý luận tương tự như vậy đã được các chính trị gia phe Tự do đưa ra ở nhiều nơi. Cho tới thời điểm đó, Hà Nội vẫn không đưa ra một bằng chứng nào cho việc này. Mang đặc tính của một “sự ngờ vực gần như là bệnh hoạn” đối với phần còn lại của thế giới và đồng thời là của một “sự tự mãn hoang dại cuồng nhiệt” (như Henry Kissinger sau này ghi lại trong hồi ký của ông), chiến lược đàm phán cố chấp của người Bắc Việt, không đưa ra điều gì và yêu cầu mọi thứ,  cho tới nay không đưa ra bằng chứng nào cho việc rằng thỏa hiệp và nhượng bộ có thể ngăn cản Hà Nội “giải phóng” miền Nam và thống nhất đất nước thành một Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mặc dù vậy, Hiệp định Paris của tháng Giêng 1973 vẫn được kiến lập trên những tiền đề này, trên giả định rằng Hà Nội sẽ chấp nhận sự tiếp tục tồn tại của một nhà nước ở miền Nam. Việc Hà Nội từ bỏ xâm chiếm miền Nam được mua bằng triển vọng hai tỉ dollar viện trợ kinh tế. Cho tới thời điểm này, trong những ngày cuối cùng của tháng Tư, Hà Nội chỉ chứng tỏ rằng những tiền đề của hiệp định chính trị là một ảo tưởng thuần túy. Không một lời hứa nào và không một lời đe dọa nào có thể ngăn cản Bộ Chính trị ở miền Bắc hoàn thành nhiệm vụ của Hồ Chí Minh và “giải phóng” miền Nam.

Bây giờ, xe tăng của Cách Mạng đã đứng ở rìa thành phố. Mùa khô đã qua, mùa mưa có thể bắt đầu vào bất cứ ngày nào và sẽ gây khó khăn lớn cho các chiến dịch quân sự. Nằm trong đường lối chiến lược cho tới nay của Hà Nội là thủ tiêu phần còn lại của quốc gia Sài Gòn với một cú đánh trúng đích, tận hưởng chiến thắng quân sự, thay vì cho phép có “tương quan  Lào” và qua đó còn mang cả người Pháp và người Nga lên sân khấu như là những người mang lại hòa bình nữa.

Việc đó minh chứng cho sức mạnh của ảo tưởng, rằng ngay cả trong Sài Gòn bị bao vây, hiện giờ bị cô lập khỏi phần còn lại của đất nước, trong tầm nhìn thấy xe tăng của đối phương, mà một kế hoạch hòa bình trên phương diện chính trị vẫn có thể thành hình được, cái tất nhiên là đòi hỏi chế độ ở miền Nam phải hy sinh nhiều nhất, tức là phải tự phá hủy trật tự cho tới nay. “Bè lũ Thiệu”, “chế độ bù nhìn”, phải bị hủy bỏ. Graham Martin, đại sứ Mỹ, đồng ý. Vào chiều ngày thứ hai, 27 tháng Tư, phó tổng thống Hương sẽ từ chức và trao quyền lại cho “Big Minh”.

Các chính trị gia tiến hành sự việc với vận tốc của con ốc sên, trong khi tướng lãnh Bắc Việt, ở Sài Gòn ai cũng nhận thấy, rõ ràng là thúc giục một quyết định. Cả ngày lẫn đêm đều nghe được tiếng “womp-womp-womp” của đạn pháo. Bây giờ tiếng súng nổ lớn nhất là từ hướng phi trường, nơi những chiếc máy bay di tản của cái cầu hàng không nhỏ bé vẫn còn có thể hạ cánh mà không bị bắn phá. Người dân Sài Gòn dao động giữa hy vọng và tuyệt vọng. Cuối cùng thì người Mỹ có chở hết tất cả những người Việt nào muốn đi hay không? Có lẽ cuộc chiến sẽ chấm dứt với một thỏa hiệp chính trị.

Khi một phóng viên nổi tiếng từ giã bạn bè vào buổi tối, vì “giải pháp Lào” cho phép ông bay về quê hương để hoàn thành một phim tài liệu rồi sau đó quay trở lại Việt Nam, thì một người bạn nói với ông ấy rằng hãy quên cái tên Sài Gòn trong lúc đó đi, vì cho tới chừng đó thì người cộng sản đã chiếm được thành phố, và đổi tên nó thành Thành phố Hồ Chí Minh rồi. Đó là “tuyên truyền của CIA”, người này rít lên vì giận dữ. Ý thức lịch sử của người Việt sẽ để cho một lần đổi tên như vậy trở nên vô lý. Cuộc thảo luận dường như tình cờ đã trở nên dữ dội cho tới mức buổi tiệc từ giã kết thúc sớm hơn dự định.

Ai cho rằng người cộng sản quyết định chấm dứt cuộc chiến đẫm máu với hơn một triệu nạn nhân bằng một chiến thắng quân sự, và sau đó tạo dựng ở miền Nam những điều kiện giống như ở Bắc Việt Nam, kể cả những giới hạn cho giới báo chí nước ngoài, thì ngay trong những ngày cuối cùng của Sài Gòn, người đó vẫn phải chịu đựng sự nghi ngờ, là đã trở thành một nạn nhân của tuyên truyền Mỹ. Nhưng cuộc tranh cãi của các ý kiến đã được nhanh chóng quyết định ngay sau đó.


Phần 3
Công việc bàn giao chức vụ được tiến hành vào ngày thứ hai, 28 tháng Tư, buổi chiều 17 giờ, trong dinh tổng thống, nằm trong một tam giác với đại sứ quán Mỹ và nhà thờ công giáo. Mây mưa nặng nề kéo đến trên thành phố. Trời đã tối. Đèn trong dinh được bật lên khi những người của “lực lượng thứ ba”, nhóm nhỏ những người trung lập, quốc gia chủ nghĩa và phật tử chiến đấu, những người cho tới lúc đó không được phép vào trong dinh tổng thống mới của năm 1964, bước qua cánh cửa mở rộng vào trong gian sảnh tiếp đón và tạm thời ngồi xuống ở hàng ghế thứ hai.

Hàng ghế đầu dành cho phó tổng thống Hương và các bộ trưởng cho tới thời điểm đó. Có lẽ khoảng 100 người, cho tới 17 giờ hầu như chỉ làm đầy được một nửa gian sảnh. Tiếp theo ở phía sau đó là giới báo chí quốc tế. Trên các lối đi, cách bục diễn thuyết không xa, là máy quay của các đài truyền hình.

Chống gậy khập khiển, phó tổng thống Hương bước vào gian sảnh, có “Big Minh” đi kèm, người mà người ta có thể nhận ra một vẻ hãnh diện nhất định cho vai trò mới này. Minh nhìn những người bạn và những người theo ông ở hàng ghế thứ nhì, những người dưới thời Thiệu đã bị gièm pha và bị các cơ quan nhà nước hành hạ nhiều năm trời; cuối cùng thì cũng đứng trước ngưỡng cửa của ảnh hưởng và sự công nhận của giới công khai: Nguyễn Văn Huyền, một luật sư mà sự hiểu biết về chuyên môn của ông có nhiệm vụ bổ sung cho sức thu hút của Big Minh; thượng nghị sĩ  Vũ Văn Mẫu, một con người nhanh nhẹn, hiền lành, luôn mỉm cười lịch sự, một Phật tử sùng đạo và là người cầm cờ của các nhà sư quốc gia chủ nghĩa ở chùa Ấn Quang; và bên cạnh nhiều người khác nữa cũng là Nguyễn Văn Tuyên, một người yêu nước thành thật, người qua chiếc kính mắt dầy cộm của mình đã phát hiện nhiều biển thủ, cẩu thả và tham nhũng trong chính phủ đã từ chức hơn là tất cả các thành viên khác của quốc hội cộng lại.

Khi cuối cùng rồi Trần Văn Hương bước lên bục diễn thuyết có treo huy hiệu tổng thống ở mặt trước, một cơn mưa bắt đầu trút xuống, lớn tới mức trong Sài Gòn nhiệt đới cũng được xem là bất thường. Cơn mưa đầu tiên sau mùa khô kéo dài nhiều tháng trời rơi xuống như một trận ngập lụt từ trên trời. Mây đen phủ tối bầu trời; giống như màn đêm đã buông xuống Sài Gòn. Bài diễn văn của Hương được nhiều tia sét đi kèm, rồi tiếng sấm tiếp theo sau đó. Richard Wagner cũng không thể dàn dựng đỉnh cao này tốt hơn.

Nhiều câu trong bài diễn văn ngắn của Trần Văn Hương bị cơn mưa đầy sấm sét này che phủ mất. Gió bão thổi màn che của những chiếc cửa sổ cao bay tung lên, đánh lạc hướng mối quan tâm của thính giả ra khỏi con người nói chuyện mờ nhạt này. Hương khiến cho khán giả của ông phải chán ngán với tính bướng bỉnh của một người muốn giữ đúng một hình thức đã mất ý nghĩa của nó từ lâu. Người thị trưởng từng được mến chuộng của Sài Gòn trước đây đã đánh mất phần còn lại của sự tin tưởng trong lần hợp tác với Thiệu, người đã lợi dụng tiếng tốt của ông mà không giao quyền lực thật sự cho người phó. Còn lại là một sự cứng đầu cứng cổ giả làm tính nguyên tắc. Người đàn ông già ốm đau này, cần dùng một cây gậy để đi lại, thật sự là một biểu tượng của trật tự đang sụp đổ.

Ông hẳn đã diễn thuyết độ mười phút. Các nhà báo không quan tâm và cũng bị trận mưa đánh lạc hướng cho tới mức hầu như không ai để cho phiên dịch bài diễn văn. Tất cả mọi người đều chờ “Big Minh”, chờ một chính phủ mới, một kế hoạch lập hòa bình mà người cộng sản muốn chấp nhận.
Hương khập khiển trở về chỗ của mình. Cả gian sảnh im lặng. Mọi ánh mắt đều hướng tới “Big Minh”, vì người ta chờ bước kế tiếp từ ông. Nhưng ông vẫn ngồi trên ghế của mình. Lần ngưng giữa chừng trong nghi thức mà không nhận ra được ý nghĩa của nó làm tăng sự căng thẳng.

Rồi cuối cùng người ta nhìn thấy một người lính canh, đeo thắt lưng trắng và dây đeo, đứng ở phía trước bên trái, cạnh cửa cánh, bước vào giữa gian sảnh tới bục diễn thuyết. Ông dùng hai tay cầm huy hiệu của tổng thống, giật nó ra khỏi móc treo, quay người với những cử động giật nhanh, tạo một vẻ buồn cười cho những người lính đang đi duyệt binh, bước ra hướng cửa và mang biểu tượng của tổng thống Việt Nam Cộng hòa ra khỏi gian phòng với những bước chân khoan thai.

Giới chính khách và nhà báo giữ im lặng, một sự im lặng mà người ta có thể xem như phút mặc niệm cho một trật tự được mang một cách tượng trưng từ sân khấu chính trị sang đống rác của lịch sử. Khán giả chăm chú theo dõi những cử động long trọng của người lính vệ binh bây giờ đang tiến gần tới lá cờ Nam Việt Nam ở bức tường phía trước, nhấc nó lên khỏi giá cắm và mang nó một cách chậm chạp, lúc nào cũng đi thẳng, ra khỏi gian phòng.

Lá cờ màu vàng với ba sọc đỏ là do người linh mục trẻ tuổi Trần Hữu Thanh phác thảo năm 1945,người sau này thân cận với tổng thống công giáo Diệm và tuyên truyền cho “triết lý chủ nghĩa cá nhân” của ông ta. Bây giờ, trong tháng Tư 1975, cha Thanh đã tham gia phe đối lập chống Thiệu từ lâu. Ông đã tạo khoảng cách với một hệ thống đã được xóa bỏ một cách tượng trưng qua lần mang lá cờ đi ra ngoài.

Đối với tôi, lá cờ ít có ý nghĩa. Nhưng từ chuyến đi tường thuật đầu tiên của tôi trong cuộc chiến này, tôi đã trải nghiệm nó như là biểu tượng của một quốc gia mà nhiều trăm ngàn người Việt đã hy sinh cho nó. Hơn 500.000 lính Mỹ đã được gởi tới đây để củng cố cho nền cộng hòa Nam Việt Nam mà 50.000 người trong số đó đã tử trận. Lá cờ vàng đỏ này đã trang trí cho các quan tài khi trên nghĩa trang quân đội lớn ở ngoài Sài Gòn, trên đường đi Biên Hòa, khi mỗi năm một lần người ta tiến hành tưởng niệm những người đã hy sinh trong một buổi lễ quốc gia long trọng.

Hàng triệu người đã chết một cái chết vô nghĩa. Đối với tôi, đó dường như là một hành động cay độc, để cho lá cờ biến mất và qua đó mà trốn tránh một trách nhiệm lịch sử.

Người lính vệ binh quay lại gian sảnh, cầm một dấu hiệu tổng thống mới trên hai tay. Với một cú đánh mạnh, ông gắn chặt biểu tượng của tổng thống “Big Minh” vào bục diễn thuyết. Hoa sen xanh nổi bật trên nền trắng. Chắc là một người nghiệp dư đã phải hấp tấp tạo ra kiểu mẫu này. Hẳn là không còn có thể tìm được một bản nào tốt hơn trong Sài Gòn. Vì không còn có thể điều hành quốc gia với những phần còn lại của xã hội này được nữa. Chỉ những kẻ mơ mộng mới tìm được hy vọng trong lần thay đổi biểu tượng vào giờ chót này.

Chỉ sau khi người lính trở về chỗ ban đầu của ông, giống như qua đó mà quá khứ đã được xóa bỏ và con đường đi tới một tương lai tốt hơn được mở ra, “Big Minh” đứng dậy từ ghế ngồi của ông, khoan thai đi tới bục diễn thuyết và bắt đầu đọc một tuyên bố của chính phủ mà trong đó lời đề nghị ngưng bắn ngay tức khắc được đưa ra. Như đã thỏa thuận với đại sứ Mỹ Graham Martin, Minh không nhắc tới lời yêu cầu di tản ngay tức khắc tất cả các quân nhân Mỹ. Nhưng ông cũng không còn nói về “những người cộng sản” nữa, mà là về “những người bạn của chúng ta ở phía bên kia… Chúng tôi thật sự mong muốn hòa giải. Các anh chắc chắn biết điều đó. Hòa giải đòi hỏi mỗi một thành phần của quốc gia đều tôn trông quyền được sống của những thành phần khác. Đó là tinh thần của Hiệp định Paris… Những ngày sắp tới sẽ hết sức khó khăn…Tôi không hứa hẹn nhiều.” “Big Minh” bổ nhiệm luật sư Nguyễn Văn Huyền làm phó tổng thống. Thượng nghị sĩ Vũ Văn Mẫu làm thủ tướng. Một chính phủ chưa được giới thiệu.

Lúc đó, tôi không nghe bài diễn văn của “Big Minh” cho tới khi kết thúc. Đối với tôi, nội dung lời tuyên bố của ông là hoàn toàn không có ý nghĩa gì trong sự so sánh với những cảnh tượng trưng cho một lần tự xóa bỏ nhà nước mà chúng tôi vừa quay xong. Nhà nước Sài Gòn thật sự đã hy sinh cái lớn nhất, để thúc đẩy Bắc Việt đi tới thỏa hiệp chính trị vào phút cuối cùng: nó đã tự tan rã, từ bỏ những biểu tượng cho sự tồn tại của chính mình, tự sát vì sợ chết.

Để đưa cuốn phim lên chiếc máy bay chuyến tối sang Bangkok càng nhanh càng tốt, tôi đã cùng đội quay phim rời gian sảnh trước. Ở trước cửa, tôi trình bày một “dự thảo văn bản” cho ban biên tập. Vài phút sau đó, người quay phim và cộng tác viên người Việt lâu năm của chúng tôi đi xe ra phi trường. Đó là vào khoảng 18 giờ, mưa đã giảm bớt đi rất nhiều.

Cho tới khách sạn “Continental” có nhiều nhà báo sống ở trong đó chỉ tốn mười phút đi bộ. Hàng hiên, vào buổi chiều là điểm gặp gỡ cho giới báo chí, quân nhân Mỹ, giới ngoại giao và dân kinh doanh đủ các loại, bây giờ trông như bị bỏ hoang. Các nhà báo vẫn còn quan sát lần thay đổi quyền lực trong dinh tổng thống.  Phần khách còn lại đã hiểu được những dấu hiệu của cuộc chiến và chuẩn bị cho tình huống khẩn cấp. Cũng có không ít người đang theo dõi trực tiếp lần nhậm chức của “Big Minh” trước các màn hình. Những chiếc taxi màu xanh-nâu sáng đỗ trước “Continental” như thường lệ. Để giết thời gian, tôi thuê một chiếc cho một chuyến đi vào Chợ Lớn.

Sau hai kilômét, chúng tôi tới nhà ga. Bất chợt có những chiếc A-37 bay ở phía trên chúng tôi, bổ nhào xuống tấn công. Người ta nghe được tiếng bom nổ ở hướng phi trường. Vài giây sau đó, hỗn loạn xảy ra trong thành phố. Ai có súng đều bắt đầu bắn lên trời. Người dân chạy, nằm xuống đất, tiếp tục chạy đi. Tiếng ồn của vũ khí tăng lên thành một nền âm thanh, càng làm cho người ta hoảng sợ, và hầu như không ai nhận biết được nguyên do nổ súng. Sài Gòn bắn lên trời vì sợ. Bốn chiếc máy bay chiến đấu hạng nhẹ kiểu A-37 bị không quân Bắc Việt tịch thu đã cất cánh từ Phan Rang Air Base, khoảng 200 kilômét đông bắc Sài Gòn, và được gởi tới phi trường Tân Sơn Nhứt dưới sự lãnh đạo của một phi công Nam Việt đào ngũ.

Hiệu ứng tâm lý của lần bỏ bom thủ đô Nam Việt vượt quá mọi sự mong đợi. Sau khi những quả bom đó rơi xuống và Sài Gòn đạt tới một trạng thái hoảng loạn, cái khiến cho người ta nhớ tới những cảnh đông người trên các bậc thang Odessa của [nhà đạo diễn] Sergei Eisenstein, thì ai cũng biết rõ rằng giờ của trận đánh đã bắt đầu.

Lần bắn súng vô nghĩa mà dân cư vũ trang của Sài Gòn đã dùng nó để kết thúc lần tự phá hủy trật tự cho tới nay kéo dài cho tới khi trời tối, hơn một giờ đồng hồ. Giới nghiêm bắt đầu sau đó. Việt Nam Cộng Hòa đã chấm dứt tồn tại trước khi bị xâm chiếm.

Tháo gỡ các biểu tượng nhà nước và phản ứng hoảng loạn của người dân Sài Gòn trước lần ném bom phi trường cho tới nay đã không được nhắc tới hay chỉ được đề cập sơ qua trong các tường thuật của nhân chứng và trong các diễn tả lịch sử.
Các cơ chế phòng vệ tâm lý đã đẩy cuộc di tản bằng máy bay đầy kịch tính, bắt đầu vào trưa ngày hôm sau đó, 29 tháng Tư, vào trong trung tâm điểm. Những dịch chuyển trọng tâm như vậy cũng được quan sát thấy tại các chiến bại lịch sử khác của “người da trắng” ở châu Á. Trong văn học và trong điện ảnh, lần quân đội Mỹ đầu hàng ở Corregidor, tháng Tư 1942 trong vịnh Manila, đã bị che phủ bởi những sự tàn bạo của người Nhật trong “chuyến bộ hành tử thần Bataan” để đi tới các trại tù binh; và “Câu cầu sông Kwai” đã quan tâm tới sự tưởng tượng của Phương Tây nhiều hơn là kết cuộc của doanh trại Anh tại Malaya và Singapore.
Thật sự là hoạt động chính trị-ngoại giao cuối cùng mà “Big Minh” đã đứng tại tâm điểm của nó – được khuyến khích và cố vấn bởi Graham Martin và Jean-Marie Merillon – đã trì hoãn cuộc di tản Sài Gòn và qua đó đã gây hại nghiêm trọng về tâm lý và chính trị.

Ngay sau bài diễn văn của “Big Minh”, đài phát thanh Hà Nội đã phát đi một tuyên bố với lời lẽ cứng rắn hết sức bất thường và với một tính yêu cầu dứt khoát, vượt quá tất cả các phát ngôn trong những ngày vừa qua. Đài phát thanh kêu gọi người dân Sài Gòn hãy “nổi dậy”.

Chẳng bao lâu sau đó, đại diện phe cộng sản, những người đã xây nơi cư trú của họ trong khu vực của phi trường thành một căn cứ chỉ huy mà các nhà quan sát ở bên ngoài hoàn toàn không hay biết gì, đã gọi điện tới các thông tấn xã Mỹ và tờ New York Times. Một phát ngôn viên đọc một bản tuyên bố mà trong đó Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ bị cáo buộc vẫn tiếp tục can thiệp vào tình hình. Nước Mỹ được yêu cầu hãy “xóa bỏ chính quyền của chiến tranh và áp bức ở Sài Gòn”. Lời tuyên bố của Mr. Minh không đáp ứng được yêu cầu này…

Qua đó, Bắc Việt đã phá hủy ảo tưởng cuối cùng. “Giải pháp Lào” giống như một canh bạc. Mỹ và các đại diện của Sài Gòn đã đi nước cờ cuối cùng của họ. Họ đã đi tới kết cuộc. Sự hấp tấp và hoảng loạn đặc trưng cho cuộc di tản của ngày hôm sau đó cũng đã lấy đi cả “thể diện” của họ dưới con mắt của châu Á.

Lần ném bom phi trường vào lúc 18 giờ chiều ngày thứ hai thật sự đã là tín hiệu cho cuộc tấn công. Suốt cả đêm đó, Sài Gòn bị bắn phá bởi đạn pháo và hỏa tiển. Cuộc di tản bằng máy bay bắt đầu vào chiều ngày thứ ba: lúc đầu là từ một điểm tập trung trong khu vực phi trường, sau đó từ nóc nhà của tòa đại sứ quán Mỹ. Bốn giờ sáng ngày thứ tư, 30 tháng Tư, đại sứ Mỹ Graham Martin rời khỏi nước. Những người lính Mỹ cuối cùng, mười một lính thủy quân lục chiến, bay vào lúc 7 giờ 53 phút từ Sài Gòn ra hạm đội trước bờ biển. Vào lúc 11 giờ trưa, 30 tháng Tư, xe tăng Bắc Việt tới dinh tổng thống ở nội thành. Một người lính với lá cờ của “chính phủ cách mạng lâm thời” lao lên cầu thang, để gắn nó lên ban công như là dấu hiệu của chiến thắng.
Lá cờ cũ đã được lấy vào từ lâu rồi.

Winfried Scharlau
Phan Ba dịch từ báo Die Zeit, số 18, ra ngày 26/04/1985:









Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét