Bốn mươi chín tuổi đời với hơn ba mươi năm cầm bút, Nguyễn Bính đã để lại cho đời 22 thi phẩm, trong đó có 14 tập thơ, 8 truyện thơ; 5 tác phẩm kịch bản sân khấu, gồm 2 kịch bản chèo, 3 vở kịch thơ (vở Bóng giai nhân phác thảo ban đầu của nhà thơ Yến Lan) và các tác phẩm văn xuôi: truyện ngắn, tiểu thuyết đã xuất bản. Một năng lực sáng tạo đáng kính nể.
Giờ đây quê hương Vụ Bản, xã Cộng Hoà, thôn Thiện Vịnh nơi sinh thành dưỡng dục ông đã thành một địa chỉ văn học cho du khách gần xa đi về. Tại đây, Nguyễn Bính cất tiếng chào đời vào mùa xuân, mùa lễ hội Thánh Mẫu Phủ Dầy năm Mậu Ngọ, 1918, trong một gia đình nền nếp, thân phụ là một nhà Nho. Gia phong còn đó trong lời thơ truyền tụng quí hơn vàng: "Nhà ta coi chữ hơn vàng/ Coi tài hơn cả giàu sang trên đời"... Nguyễn Bính mồ côi mẹ khi mới ba tháng tuổi, một thiệt thòi của tuổi thơ khó có gì bù đắp. Việc học hành của ông được uỷ thác cho người bác ruột bên mẹ, cụ Bùi Trình Khiêm, một nhà Nho yêu nước ở Vân Tập dạy bảo. Nguyễn Bính thụ giáo cả chữ Nho, chữ Quốc ngữ ở đây. Còn tiếng Pháp chắc là ông phải học với người anh ruột là nhà giáo Nguyễn Mạnh Phác - nhà viết kịch Trúc Đường. Nguyễn Bính sáng dạ, ông nhập tâm chữ nghĩa chân truyền, kinh sách, văn học, lịch sử... Cái nôi văn hiến Thiên Bản - Vụ Bản, Nam Định đã sinh ra Nguyễn Bính, một "thần đồng thi ca" khi mới mười ba tuổi. Nguồn mạch văn hoá - văn học dân tộc - dân gian đã góp công nuôi dưỡng thi tài Nguyễn Bính. Là một nhà thơ của Phong trào Thơ Mới(1932-1945), Nguyễn Bính tự làm giàu vốn kiến văn của mình khi văn học Việt Nam bước sang một thời kỳ mới. Trở thành một nhà thơ chuyên nghiệp sau khi nhận giải thưởng thơ của Tự Lực văn đoàn năm 1937, chỉ trong khoảng năm sáu năm, thơ Nguyễn Bính đã được đón nhận nồng hậu ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn...Cố hoạ sĩ Nguyệt Hồ (1902-1992), một người bạn vong niên, "đồng điệu" chí cốt, thuỷ chung của Nguyễn Bính từ thời cùng làm báo trước năm 1945 ở Hà Nội, nhớ lại: "Có một điều lạ là Nguyễn Bính nổi tiếng rất nhanh và nổi như cồn! Thơ anh xuất hiện, đi đến đâu, khắp thành thị, thôn quê, một thị trấn rừng biên giới hay một bến đò hẻo lánh xa xăm, người ta đều nỉ non, thánh thót đọc thơ Nguyễn Bính. Bà ru cháu, mẹ ru con bằng thơ Nguyễn Bính...Nguyễn Bính có một bộ mặt thơ riêng sau này nhiều người bắt chước gần như một trường phái. Ai làm theo kiểu đó người ta nhận ra ngay: "Lại bắt chước thơ Nguyễn Bính rồi"! Bộ mặt thơ riêng ấy là cái chất đượm tình "quê mùa", chất dân tộc Việt Nam ta. (Nguyệt Hồ - Lời bạt Giai thoại Nguyễn Bính -1991). Tài ứng đối văn chương, năng lực thi ca và bản lĩnh văn chương, Nguyễn Bính trong "trường văn trận bút" khi cộng tác, giao lưu với các vị cựu học, tân học: Trúc Khê, Thế Lữ, Nguyễn Vỹ, Lê Tràng Kiều... với các đồng nghiệp văn chương: Tô Hoài, Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, Vũ Hoàng Chương, Yến Lan, Đông Hồ, Mộng Tuyết... mà không "hụt hơi", không "lạc nẻo". Phải tự tin như thế nào một thi sĩ "chân quê" như ông mới có những cuộc "đi thực tế" suốt chiều dài đất nước, một thi nhân chỉ sống bằng nhuận bút và sự ưu ái của bè bạn và những người mến mộ thơ mình. Nguyễn Bính kỳ tài! Dù phải nếm trải những thiệt thòi cay đắng, những lỡ dở, phũ phàng của cái thời buổi "coi đồng bạc to hơn núi", thói đời và tình người với bao nhiêu ngán ngẩm nơi phồn hoa gió bụi kinh thành: "Nhất kiêng đừng lấy chồng thi sĩ/ Nghèo lắm con ơi, bạc lắm con". Dù phải cầm lòng bước lên bục diễn thuyết, viết kịch rồi đóng kịch lấy tiền để độ nhật, để xoay lấy một tấm vé cho chuyến tàu chở một người "giời bắt làm thi sĩ" trên đường thiên lý "hành phương Nam", nhất quyết không bỏ cuộc. Lạ một điều là trong hoàn cảnh lữ thứ tha hương như thế, Nguyễn Bính đã có những thi phẩm để đời dù phải đáp ứng tức thì những đòi hỏi của các ông chủ bút, các Mạnh Thường Quân và bạn đọc nơi ông đến rồi đi. Ví như chùm thơ ông viết ở Huế: Xóm Ngự Viên, Giời mưa ở Huế cùng với Người con gái ở lầu hoa, khi đứng vào tuyển tập thơ viết về Huế trước năm 1945 tập Bài thơ thôn Vĩ (Sông Hương - 1987), với 50 thi tài danh tiếng của đất nước, thơ Nguyễn Bính với hai bài thất ngôn trường thiên độc vận đặc sắc, xứng đáng đứng hàng đầu trong tuyển tập này. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh (1909-1982) trong cuốn Thi nhân Việt Nam đã có một nhận xét chí lý: Thơ Nguyễn Bính "là hồn xưa đất nước".
Gia tài thi ca của ông chủ yếu là thơ tình. Cái tình chân quê trong trẻo "Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông/ Một người chín nhớ mười mong một người", cái tình ngây thơ tuổi học trò "Đội đầu chung một lá sen tơ", cái tình trong mộng "Có một nghìn đêm tôi chiêm bao", ước vọng hạnh phúc lứa đôi không thành "Từ ngày Nhi bỏ nơi làng cũ/ Mộng ngát duyên lành cũng bỏ tôi". Thơ tình Nguyễn Bính có cả mối đồng cảm với những tâm tình nơi thôn dã, những cảm thương nhân ái đối với những thân phận goá bụa, đơn côi, từ bà lão xóm Tây đến anh lái đò nghèo, từ chị Trúc "lỡ bước sang ngang" đến cô gái Hà Thành trinh trắng bạc mệnh ...Những gương mặt nhân hậu lầm lụi trong đám bụi mù nhân thế thời vong quốc "Gái chính chuyên kia đứng vệ đường", khuất lấp trong không gian cách trở, quạnh quẽ nghìn đời "Nhà em xa cách quá chừng/ Em van anh đấy, anh đừng thương em"... Những cuộc biệt ly chồng nam vợ bắc trên sân ga đổ bóng "Buồn ở đâu hơn ở chốn này?" Thơ Nguyễn Bính còn có những bài cảm động viết về quê hương, về gia đình thời nước mất nhà tan, với bao nhiêu ngậm ngùi thương nhớ.
Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ mới có công hiện đại hoá thể thơ lục bát. Ông và nhà thơ Huy Cận là những kiện tướng của thể thơ dân tộc này. Ngay thể thơ thất ngôn Đường luật vốn rất nghiêm nhặt, ở Nguyễn Bính cũng thăng hoa với đủ cả các phẩm chất đăng đối, tề chỉnh mà cứ tươi ròng sức sống:
Em vốn đường dài thân ngựa lẻ
Chị thì sông cái chiếc đò nan
Quê người đứng ngắm mây lưu lạc
Bến cũ nằm nghe sóng lỡ làng...
Ngọn bút trữ tình Nguyễn Bính có lúc còn "thảo lên lên giời mấy nét nhanh" trong bài Bảy chữ để gửi cho người mình yêu bức "ngọc thư" độc đáo: Xe ngựa chiều nay ngập thị thành/ Chiều nay nàng bắt được giời xanh/ Đọc xong bảy chữ thì thương lắm: "Vạn lý tương tư, vũ trụ tình".
Trước đó chừng một thế kỷ, một nhà thơ châu Âu cũng có thao tác "viết thư tình lên giời" gần giống Nguyễn Bính. Đó là Henrich Hainơ (1797-1856), nhà thơ lớn của nước Đức, trong tập Biển bắc, ông viết:
Anh sẽ nhổ cây thông nào cao lớn nhất Na Uy
Nhúng vào miệng hoả diệm bùng chảy
Anh viết câu thơ sáng rực lên trời:
"Anh yêu em! Hỡi em! An - nét!"
Trong bài thơ Một trời quan tái viết ở Lạng Sơn năm 1940, Nguyễn Bính có một dòng tự bạch "Tôi là thi sĩ của thương yêu". Ngẫm lại thật đúng. Là thi sĩ khát khao và trân trọng tình người, Nguyễn Bính trở thành người đồng điệu của nhiều văn nghệ sĩ chân chính ở các chân trời nghệ thuật từ xưa đến nay, những người suốt đời phấn đấu vì tình thương yêu đồng loại, tình yêu nhân dân đất nước, sống và viết với ước vọng nhân văn cao cả ấy.
Nguyễn Bính không màng thứ danh lợi "vinh thân phì gia" khom lưng uốn gối. Bước qua những lời mời gọi trọng vọng và cả lời hăm doạ từ đám quan chức Sài Gòn theo Pháp, đầu năm 1947, Nguyễn Bính đến với chiến khu Đồng Tháp Mười, tham gia kháng chiến, đồng cam cộng khổ với cán bộ, chiến sĩ, đồng bào miền Tây. Thơ ông chuyển sang một thời kỳ mới: phục vụ cuộc kháng chiến anh dũng quyết chiến quyết thắng của quân và dân Nam Bộ. Thơ Nguyễn Bính trên tờ Lá Lúa xuất bản ở chiến khu, có bài trở thành ca khúc nổi tiếng (Tiểu đoàn 307 - Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc). Những sáng tác kịp thời của ông được in qua những chế bản bằng đất, bằng bột, litô... được truyền tay nhau, nhanh chóng thâm nhập quần chúng ở Nam Bộ: Thư gửi về Cha, Đồng Tháp Mười, Mẹ, Chung một lời thề... "Thi sĩ của thương yêu" trải qua công tác ở Hội Văn hoá Cứu quốc tỉnh Rạch Giá, phó chủ nhiệm tỉnh bộ Việt Minh tỉnh Rạch Giá, cán bộ cơ quan Văn nghệ khu Tám. Ông trở thành "rể quý" của miền quê phương Nam.
Năm 1954, Nguyễn Bính tập kết ra Bắc. Thơ Nguyễn Bính tiếp tục hành trình mới trong cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Ông về nhận công tác ở Hội Nhà văn Việt Nam. Rồi Nguyễn Bính làm báo, ông chủ trương tờ Trăm hoa bộ mới. Do không đáp ứng được yêu cầu của báo chí thời điểm ấy, toà soạn đóng cửa, năm 1958, Nguyễn Bính trở về Nam Định sinh sống và tiếp tục sáng tác. Rồi ông nhận công tác tại Ty Văn hoá Thông tin tỉnh Nam Định. Là cán bộ của Phòng Sáng tác, nhà thơ Nguyễn Bính "đã góp công vào sự trưởng thành của phong trào văn nghệ quê hương". Một số cây bút trẻ của tỉnh đã được ông chỉ bảo, khuyến khích qua những đợt tập huấn, những hội nghị sáng tác, trong đó có những người nay đã là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Trở về quê nhà Nam Định, sức sáng tạo của Nguyễn Bính như được "hồi xuân". Cùng với các sáng tác thơ trữ tình, trong đó có những thi phẩm xuất sắc Chiều Thu, Đêm sao sáng, Trở về quê cũ, Tháng ba... các trường ca Làng tôi, Xây nhà máy...truyện thơ Tiếng trống đêm xuân, Bức thư nhà... Nguyễn Bính viết hai vở chèo Cô Son, Người lái đò sông Vị "bộc lộ tình cảm thiết tha đối với truyền thống nghệ thuật dân tộc".
Về Nam Định, Nguyễn Bính gặp lại những người bạn cũ Nguyệt Hồ, Trần Văn Khuê... Những người trân trọng tình bằng hữu với nhà thơ đã góp phần vun đắp cho ông có một mái ấm gia đình sau những chia ly, cách trở. Gia đình ông cùng chia sẻ những khó khăn với nhân dân thành Nam những năm tháng gian khổ. Ông cũng có thêm những đồng nghiệp mới biết trân trọng tài năng văn chương như nhà viết kịch Hồng Vũ, nhà văn Chu Văn... và những người tử tế yêu mến Nguyễn Bính nơi nhiệm sở, chốn dân phố, nơi sơ tán "Chồng ở Nhân Nghĩa, vợ Nhân Hậu...".
Hai mươi năm sau ngày ông đi xa, Tuyển tập Nguyễn Bính do Hội Văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh, nhà xuất bản Văn học liên kết xuất bản với sự góp công của các nhà sưu tầm - tuyển chọn: Quang Huy - Vũ Quốc Ái - Kim Ngọc Diệu - Đỗ Đình Thọ đã ra mắt với số lượng hàng vạn bản đáp ứng yêu cầu bạn đọc gần xa, làm nên một "hiện tượng xuất bản" lúc bấy giờ. Năm 1998, kỷ niệm 80 năm sinh ông, tuyển tập thơ Thi sĩ của thương yêu, Hội Văn học Nghệ thuật Nam Định xuất bản, tuyển chọn những bài thơ của các nhà thơ, các hội viên bộ môn thơ viết về Nguyễn Bính cùng các thi phẩm đặc sắc của ông. Năm 2008, kỷ niệm 90 năm sinh ông, Hội Văn học Nghệ thuật Nam Định xuất bản ấn phẩm Thi sĩ Nguyễn Bính hồn thơ Việt, tập hợp 16 bài viết của các tác giả nghiên cứu phê bình, tôn vinh sự nghiệp thi ca của Nguyễn Bính. Cùng thời điểm ấy, một con đường ở thành phố Nam Định mang tên nhà thơ quê hương. Tại miền thượng huyện Vụ Bản, xã Hiển Khánh, trường Trung học phổ thông Nguyễn Bính nhiều năm qua vẫn duy trì nền nếp "dạy tốt, học tốt". Thơ Nguyễn Bính trong tiếng trống "Tựu trường san sát chân son", nhiều trang sổ tay văn học của các bạn trẻ thời hội nhập chép thơ Nguyễn Bính.
Cứ nghĩ, giá mà giờ đây Nguyễn Bính còn, chúng ta sẽ được thấy một "đại lão thi sĩ" đầu râu tóc bạc chín mươi nhăm tuổi, sánh bước cùng người bạn cũ Tô Hoài, một "đại lão văn sĩ" chín mươi ba tuổi để con cháu nội ngoại xúm xít chúc mừng thì hay biết bao nhiêu! Nhưng Nguyễn Bính như người đẹp thuở xưa "Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu". Trước ngày đi xa, tại nơi sơ tán, thôn Đức Bản, xã Nhân Nghĩa, huyện Lý Nhân, trong ngôi nhà lợp lá mía, trên chiếc bàn kê tạm bên ô cửa sổ vấn vít những luống quít, giàn trầu, ông đã kịp gửi lại Bài thơ quê hương chứa chan tình yêu quê hương đất nước. Ông cũng gửi lại bài thơ tập Kiều tuyệt bút Kính gửi cụ Nguyễn Du và Truyện Kiều nhân dịp kỷ niệm 200 năm sinh đại thi hào Nguyễn Du:.."Thương vui bởi tại lòng này/ Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời/ Lòng thơ lai láng bồi hồi/ Tưởng người nên lại thấy người về đây".
Để kết bài viết này, tôi xin mượn bài thơ của nhà thơ - kiến trúc sư Vũ Minh Am, viết tháng Giêng, năm Mậu Dần, 1998, in trong tập Thi sĩ của thương yêu. Bài thơ hay "tờ hoa tiên" báo trước ngày vui:
Trạng nguyên
Bút nghiên lều chõng... ôi thôi!
Thảo nhanh bảy chữ lên giời thiên thanh
Chân quê nộp quyển thơ tình
Trạng nguyên áo vải một mình vinh quy.
PHẠM TRỌNG THANH (VANHOCQUENHA.VN)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét