Nhìn Lại Giai Đoạn Ngô Đình Diệm là bài viết của ông Nguyễn Gia KIểng đăng trên báo Thông luận.
Nguyễn Gia Kiểng trước 30-4-1975 là thứ trưởng bộ Kinh tế VNCH, hiện đang sống ở Pháp.
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 52 ngày chế độ Ngô Đình Diệm bị
lật đổ và hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bị thảm sát – sau đó ít lâu ông
Ngô Đình Cẩn cũng bị xử tử - tôi đã đề nghị ban biên tập Thông Luận cho
đăng lại hai bài tôi viết trước đây. Đó là bài "Kinh nghiêm Ngô Đình Diệm" viết
năm 2004 và bài "Ông Ngô Đình Diệm đã lên cầm quyền như thế nào?" viết
năm 2005. Tôi giữ nguyên những ý kiến trong cả hai bài này dù trong khoảng thời
gian giữa hai bài đã xảy ra một sự kiện quan trọng: đó là tôi có được hai tài
liệu cho thấy rõ một cách không thể chối cãi tiến trình đã đưa ông Diệm lên cầm
quyền và cũng giải thích tại sao chính quyền Ngô Đình Điệm đã hành động như họ
đã làm.
Lần này tôi công bố toàn bộ hai tài liệu này mà mười năm
trước khi viết bài "Ông Ngô Đình Diệm đã lên cầm quyền như thế nào?",
tôi đã không có thì giờ để đánh máy và dịch sang tiếng Việt. Đó là một thư của
ông Ngô Đình Nhu viết cho ông Jacques Bénet ngày 20 tháng 4 năm 1954 và một thư
của ông Jacques Bénet viết cho bà Ngô Đình Nhu ngày 18 tháng 10 năm 2004. Tôi
xin nhắc lại một điều đã viết trong bài này là ngay từ trước, khi được ông Ngô
Đình Luyện (có sinh hoạt một thời gian trong nhóm Thông Luận, tiền thân của
Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, trước khi qua đời) giải thích rằng ông Diệm lên cầm
quyền là do ý muốn của Bảo Đại tôi đã thấy giải thích này không hợp lý.
Thư của ông Jacques Bénet gửi bà Nhu trình bày một cách
chi tiết tiến trình trong đó người Pháp đưa ông Diệm lên cầm quyền và làm
áp lực để buộc Bảo Đại phải chấp nhận giải pháp này. Thư của ông Nhu gửi ông
Jacques Bénet cho thấy rõ là chính quyền Pháp đã có cả một kế hoạch ngầm để
giúp ông Ngô Đình Diệm loại tướng Nguyễn Văn Hinh, dẹp quân Bình Xuyên và các
giáo phái để thu tóm quyền lực về một mối. Thư này cũng nói đến "trận
chung kết" là tổ chức bầu cử. Đó là cuộc trưng cầu dân ý ngày 23 tháng 10
năm 1955 lật đổ Bảo Đại. Sau đó chế độ Việt Nam Cộng Hòa được chính thức công bố
ngày 26/10/1955. Ông Nhu cũng nhấn mạnh về sự cần thiết của một chính sách
của Pháp tại Đông Dương.
Hai lá thư này cho phép kết luận rằng ông Ngô Đình
Diệm không phải do Mỹ đưa lên cũng không phải do ông Bảo Đại chọn lựa mà là một
giải pháp của chính quyền Pháp để triệt thoái một cách êm thấm khỏi Việt
Nam đồng thời giữ được tối đa ảnh hưởng chính trị và văn hóa cũng như các quyền
lợi kinh tế. Như vậy phải hiểu rằng chính sách hợp tác với Mỹ và chống Pháp
trong những năm đâu của chính quyền Ngô Đình Diệm chỉ là bề ngoài. Bên trong thực
sự là đi đêm với Pháp và lợi dụng Mỹ.
Cũng theo chủ trương của Pháp mà chính quyền Ngô
Đình Diệm đã ngấm ngầm tiếp xúc với phe cộng sản để tìm cách thỏa hiệp. Theo hồi
ký của ông Nguyễn Phú Đức, cựu bộ truởng VNCH, việc này bị Mỹ phát giác vì đại
tá Hoàng Thụy Năm đã thông báo cho tình báo Mỹ cuộc tiếp xúc giữa ông Ngô Đình
Nhu và ông Phạm Hùng trên sông Sài Gòn. Ông Nhu đã ra lệnh giết ông Hoàng
Thụy Năm và đổ tội cho cộng sản ám sát. Ông Nguyễn Phú Đức đã liên tục giữ những
chức vụ rất quan trọng trong chế độ VNCH nên những điều ông tiết lộ có mọi khả
năng là đúng. Hơn nữa tiết lộ của ông Nguyễn Phú Đức cũng rất phù hợp với một
chuỗi sự kiện:
- Đầu tháng 3/1961 ông Ngô Đình Nhu thay mặt chính
quyền VNCH đi Maroc dự lệ tấn phong vua Hassan II. Tại sao ông Nhu, một người
không có chức vụ chính thức nào lại thay mặt cho chính quyền VNCH trong một
nghi lễ chính thức và long trọng như vậy mà không phải là tổng thống Ngô Đình
Diệm, hay phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ hay ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu?
- Sau đó, như một sự tình cờ, ông Ngô Đình Nhu được
tiếp đón rất long trọng tại Pháp và ở lại Pháp vài ngày dù lúc đó bề ngoài Việt
Nam đang rất lạnh nhạt với Pháp. Việc đi Maroc dự lễ đăng quang vua Hassan II
có thể chỉ là một lý cớ để ông Nhu hội ý với chính quyền Pháp.
- Sau đó vài tháng là cuộc tiếp xúc Ngô Đình Nhu -
Phạm Hùng. Người ta có thể hiểu rằng cuộc tiếp xúc này đã do Pháp dàn xếp sau
khi thuyết phục ông Nhu. Nhiều tài liệu còn cho hay là ông Nhu còn gặp lại Phạm
Hùng đầu năm 1963.
- Ngày 01 tháng 10 năm 1961 đại tá Hoàng Thụy Năm bị
bắt cóc và bị giết. Sau này người ta được biết ông Hoàng Thụy Năm không bị cộng
sản ám sát mà do ông Nhu ra lệnh giết.
Việc tìm kiếm một thỏa hiệp với Hà Nội có đúng hay không
là một vấn đề có thể bàn cãi. Điều chắc chắn là nó rất trái ngược lập trường
"diệt cộng" chính thức của chính quyền Ngô Đình Diệm; nó đã khiến Hoa
Kỳ cảm thấy bị phản bội và quyết tâm lật đổ chế độ, nhất là sau khi hai ông Diệm
và Nhu giết ông Hoàng Thụy Năm. Việc chính quyền Ngô Đình Diệm thiên vị
Công giáo là có thật nhưng việc đàn áp Phật Giáo chỉ là lý cớ dàn dựng của
người Mỹ để lật đổ ông Diệm. Việc Dương Văn Minh giết hai ông Diệm và Nhu sau
khi họ đã đầu hàng rất có thể là theo chỉ thị của Mỹ. Khó có thể tưởng tượng Mỹ
chấp nhận để hai ông sang Pháp và chống đối lại chính sách của họ tại Việt Nam.
Đây cũng là dịp để nhìn lại những nét chính của chế độ
Ngô Đình Diệm.
1. Nhận xét đầu tiên là người có quyền lực lớn nhất
trong chế độ là ông Ngô Đình Nhu chứ không phải ông Ngô Đình Diệm. Chính ông
Nhu đã vận động chính quyền Pháp để đưa ông Diệm lên cầm quyền và sử dụng ông
Diệm như một biểu tượng.
2. Ông Nhu, và ông Jacques Bénet, đã rất chủ quan và sai
lầm khi nghĩ rằng ông Ngô Đình Diệm là một biểu tượng tốt. Quan điểm của tôi,
như đã trình bày trong bài "Kinh nghiệm Ngô Đình Diệm", là ông
Ngô Đình Diệm không thể là một biểu tượng cho Việt Nam trong thời đại độc lập.
Ông đã hợp tác tận tình với chế độ Pháp thuộc và đã tiếp tay đàn áp những người
đấu tranh giành chủ quyền dân tộc. Ông, và cả ông Nhu, cũng không phải là người
hùng biện và có viễn kiến để thu hút trí thức và quần chúng.
3. Cách làm chính trị của ông Diệm và ông Nhu là cách làm
chính trị nhân sĩ. Họ không xây dựng lực lượng đấu tranh mà chỉ vận động
hành lang để được một thế lực ngoại bang đưa lên cầm quyền. Cách hoạt động
chính trị này phải bị vất bỏ dứt khoát và vĩnh viễn. Kinh nghiệm Ngô Đình Diệm
cho thấy rằng cách làm chính trị này dù có "thành công" trong nhất thời
cũng chỉ là một tai họa cho đất nước và sau cùng cho chính mình. Chính vì không
có tổ chức mà khi cầm quyền hai ông Diệm và Nhu đã phải dựa vào gia đình và một
số người thân thuộc.
4. Ông Nhu đã quá chủ quan khi nghĩ rằng có thể đánh lửa
được dư luận Việt Nam và chính phủ Mỹ khi bề ngoài tỏ ra chống Pháp trong khi vẫn
liên hệ mật thiết ngấm ngầm với Pháp. Sự chủ quan còn đi đôi với sự vụng về vì chính
quyền Ngô Đình Diệm là một sự tiếp nối quá lộ liễu của chính quyền bảo hộ Pháp.
Tất cả các quyền lợi của Pháp đều được duy trì, con cái các cấp lãnh đạo cao cấp
đều chỉ học trường Pháp, mọi viên chức thời Pháp thuộc đều được trọng dụng và
thăng tiến, các đảng phái chống Pháp bị đàn áp, dù được nhân dân tôn kính,
như Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt.
5. Thống nhất quyền lực vào giai đoạn 1954 - 1955 là một
chủ trương đúng nhưng tiêu diệt các lực lượng giáo phái như hai ông Diệm –
Nhu đã làm là không đúng. Họ là những lực lượng có cơ sở quần chúng và cũng có
bản chất dân tộc hơn những công chức, sĩ quan và hạ sĩ quan của bộ máy thuộc địa
mà chính quyền Ngô Đình Điệm trân trọng và lưu dụng. Vấn đề là phải thuyết phục
và giáo dục được họ, nhưng điều này vượt khả năng của các ông Diêm và Nhu, những
người thuộc môi trường quan lại sống tách biệt với xã hội Việt Nam.
6. Trái với quan điểm của một số người, ông Ngô Đình
Nhu không có bản lĩnh chính trị cao. Chắc chắn ông có kiến thức chính trị cao
hơn phần lớn những người lãnh đạo phe quốc gia cùng thời đại với ông, nhưng ông chưa
có khả năng chính trị phải có ở tầm mức quốc gia. Chủ nghĩa nhân vị mà ông đề
cao - và cũng không có dấu hiệu gì là đã hiểu - trên thực tế chỉ là một chủ
nghĩa cá nhân lúng túng không dám tự xác nhận. Tôi đã có may mắn quen biết hai
cộng sự viên gần gũi nhất của hai ông Diệm và Nhu tại Dinh Độc Lập trong suốt
thời gia họ cầm quyền là đại tá Lê Văn Đức và giáo sư Tôn Thất Thiện. Cả hai đều
xác nhận các tác phẩm của ông Nhu chỉ là những bài diễn văn của ông Diệm. Nhưng
bài diễn văn này không có gì đặc sắc.
7. Sai lầm và trách nhiệm lớn nhất của chế độ Ngô
Đình Diệm là đã đàn áp các đảng quốc phái quốc gia. Các đảng này đã đóng góp
xương máu giành độc lập dân tộc và chống lại cộng sản. Họ có sự chính đáng
hơn hẳn ông Ngô Đình Diệm. Chỉ có hợp tác với họ mới có thể tranh thủ được sự ủng
hộ của quần chúng.
8. Nhiều người ca tụng hai ông Diệm và Nhu là có tác phong
xứng đáng, có danh dự cao và đã dũng cảm bảo vệ bằng
tính mạng lập trường của mình. Đúng là ông Diệm và ông Nhu đã có phong cách hơn
hẳn nhưng người đã từng giữ vai trò lãnh đạo trong gần một thế kỷ qua trong cả
hai phe quốc gia cũng như cộng sản. Tuy vậy cũng không thể quên là cuối cùng,
khi thấy mình tuyệt vọng, họ đã đầu hàng nhóm tướng lãnh đảo chính để rồi bị giết.
Mặt khác theo lời của ông Kenneth Todd Young, một viên chức cao cấp tại bộ ngoại
giao Mỹ phụ trách về Châu Á, thì ông Trần Văn Chương, thân phụ bà Ngô Đình Nhu,
đã cho hay là một tuần trước khi bị đảo chính hai ông Diệm và Nhu cũng đã
có ý định đào thoát ra nước ngoài nhưng ý định này không được thực hiện vì
sự chống đối dữ dội của bà Ngô Đình Nhu. Ông Diệm và ông Nhu không tuẫn quốc
như nhiều người nghĩ. Họ đã lãnh đạo đất nước, đã không thành công và bị
giết, sau khi chính họ cũng đã thủ tiêu nhiều người khác.
9. Sau cùng nhân dịp này tôi thấy cần khẳng định dứt
khoát một lần nữa là ông Ngô Đinh Nhu không liên quan gì tới cuốn Chính Đề
Việt Nam. Tác giả cuốn sách này là ông Lê Văn Đồng một cựu công sự viên của hai
ông Diệm và Nhu nhưng đã chia tay ngay từ năm 1957 vì bất đồng quan điểm. Khi
tham gia Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên năm 1988 (lúc đó chưa có danh xưng chính thức
THDCĐN) ông Lê Văn Đồng đã đem đến và trình bày cuốnChính Đề Việt Nam. Chính
chúng tôi đã làm photocopy và phổ biến tới một số thân hữu. Lúc đó ông Ngô Đình
Luyện cũng sinh hoạt với chúng tôi và cũng có tham gia cuộc thảo luận về cuốn Chính
Đề Việt Nam với ông Lê Văn Đồng, và không ai đặt nghi vấn về việc Tùng
Phong là bút hiệu của Lê Văn Đồng cả. Giả thuyết ông Ngô Đình Nhu là tác giả cuốn
sách này chỉ dựa trên dựa trên một sự kiện rất mỏng manh là ông Cao Xuân Vỹ nhớ
lại rằng có lần ông Ngô Đình Nhu đã nhờ ông trao cho ông Lê Văn Đồng một tập
tài liệu bằng tiếng Pháp mà ông không nhớ là gì. Từ đó mà suy luận rằng đó là bản
tiếng Pháp của Chính Đề Việt Nam thì quả là quá phiêu lưu.
Sau nhiều năm dài, tác phẩm “Chính Đề Việt Nam” đã bị các
phần tử hoài Ngô (như các ông Tôn Thất Thiện, Trương Phú Thứ, …) lạm xưng rằng
tác giả là “thiên tài” Ngô Đình Nhu, viết với bút hiệu Tùng Phong. Mãi đến năm
2011, bà Lê Tuyết Anh, con gái của Kỹ sư Lê Văn Đồng (đã từng từ Pháp trở về
làm Bộ trưởng thời Diệm nhưng từ chức vì bất đồng quan điểm) mới cho biết Tùng
Phong chính là bút hiệu của thân phụ của bà. Và tác phẩm nầy được xuất bản tại
Sài Gòn lần đầu năm 1964, được tái bản tại hải ngoại năm 2009. Chứng cớ bất khả
phủ bác là một hồ sơ lưu trữ ghi nhận tên tác giả/tác phẩm của CIA Mỹ vào những
năm 1960. Tuy vậy, vì không biết thông tin nầy, hằng năm cứ đến tháng 11, lại vẫn
có một số người tiếp tục vinh danh … thiên tài Ngô Đình Nhu.
Một sự thực đáng buồn là cho tới này phần lớn những bài
viết về chế độ Ngô Đình Diệm và anh em họ Ngô đều chỉ dựa vào một số sự kiện để
phát biểu lập trường có sẵn của mình. Người bênh anh em họ Ngô thì viện dẫn mọi
lý do - kể cả những lý do rất vu vơ như trong câu chuyện cuốn Chính Đề Việt
Nam - để ca tụng, người ghét thì cũng tìm mọi lý cớ để đả kích, trong khi
thái độ phải có là cố gắng hiểu rõ một giai đoạn lịch sử để có thể rút ra những
kết luận đúng cho tương lai.
Giai đoạn Ngô Đình Diệm mới chỉ gần đây thôi. Còn khá nhiều
tài liệu và nhân chứng. Nếu chúng ta không có nổi một sự hiểu biết chính xác
thì những sử liệu về các giai đoạn trước có giá trị gì?
Nguyễn Gia Kiểng
(01/11/2015)
\
Phụ đính 1:
Thư của ông Ngô Đình Nhu gửi ông Jacques Bénet
Jacques Bénet (1915-2009)
Le 20 Avril
Mon cher Bénet,
Merci infiniment de ta longue lettre du 8. C'est
positivement étonnant cette unité de vue entre toi et moi sur tous les
aspectsdu problème qui nous intéresse que cela touche les réalités politiques
ou les hommes qui y participent, y compris mes frères, M. Khiêm ou tes
compatriotes. C'est à croire que nous ne nous sommes pas quittés depuis 1949 et
que nous travaillons côte à côte dans le même bureau sous la vigilance de ta
Simone. C'est te dire combien je suis heureux de voir pareilles communion
d'idées et de sentiments entre toi et moi, séparés par des milliers de
kilomètres. C'est vrai qu'après avoir surmonté la crise Hinh nous nous
apprêtions à démarrer avec l'affaires des sectes qui se présentait on ne peut
plus favorablement. Malheureusement nous nous sommes coincés entre
l'incompréhension française et l'inexpérience américaine: une différence
d'appréciation sur l'opportunité de briser de façon ferme et décisive l'obstacle
féodal pour libérer le pauvre peuple vietnamien et le rallier à nous. Depuis
l'avènement du Président la grande pensée du gouvernement est de briser les
deux obstacles, cercles de fer, qui séparaient le peuple du gouvernement
progressite. C'est l'armée "nationale" et "les sectes".
Nous avons gagné la première manche, nous espérons gagner la seconde, la belle
sera alors les élections que nous sommes certains de gagner. Ajouté à cela ce
"Temps harcelant" qui ne nous permet pas de musarder en chemin et de
pratiquer la bonne vieille politique de compromis. L'heure est donc unique et
décisive. Si nous ne réussissons pas à convaincre les responsables du Monde
Libre pour qu'ils nous aident à neutraliser les colonialistes qui soutiennent
les féodaux contre le gouvernement national nous irons à la catastrophe. Car le
peuple vietnamien déçu définitivement nous abandonnera. Et le Monde Asiatique
que nous avons travaillé ces derniers mois et qui commençait à s'impatienter
avec nous, se détournera de nous, isolés alors en Asie et à la merci du Viet
Minh. Car il ne faut plus recommencer l'expérience de 1945 – 1954. Soutenus
seulement par le camp occidental nous sommes surs d'être battus par le
communisme en Asie. Il faut avoir le soutien du peuple vietnamien et la
sympathie du Monde Asiatique, pour que l'aide occidentale, dédouanée par la
personalité du Président Ngô, puisse être utile, ayant reçu l'étiquette
asiatique. Cette conception est bien comprise par des hommes intelligents et au
courant des affaires d'ici, tels que M. M Roux (affaires étrangères), A
Risterucci (Etats Associés). Il faut travailler de manière à ce que des
instructions en ce sens qui sont, j'en suis persuadés, déjà prêtes soient
envoyés d'urgence à Saigon. Le général Ely est un honnête homme,
malheureusement il est de nature inquiet et pessimiste (voir affaire Hinh =
armée coupée en deux, guerre civile et … si le Président touche à Hinh). Ce
général est une espèce de "Docteur Tant Pis" qui voit tout en noir ou
plutôt tout en rouge. Rappelle toi les velléités des communistes qui
cherchaient à créer un état autonome en France à l'époque de la libération et
que le gouvernement français n'a pas hésité à étouffé dans le sang. Il faut
sacrifier quelques uns pour le bien de tous.
La France n'a pas eu jusqu'ici de politique en Indochine.
C'est le moment ou jamais d'en avoir une.
A Dieu, cher ami, et merci pour tes conseils et
encouragements. Je reste toujours le même sans quoi (les quelques mots de
la fin sont illisibles, à moitié coupés lors de la photocopie)
Chuyển ngữ:
Ngày 20 tháng 4
Bénet thân,
Vô cùng cảm ơn mày về lá thư dài ngày 8. Thật ngạc nhiên
một cách thú vị khi mày và tao đồng nhất quan điểm trên tất cả mọi mặt của
vấn đề mà chúng ta cùng quan tâm, dù là về những thực tại chính trị hay về những
người trong cuộc, kể cả các anh em tao, ông Khiêm (1) hay các đồng bào của mày.
Cứ như là chúng mình chưa từng chia tay từ 1949 khi còn làm việc với nhau trong
cùng một văn phòng dưới sự chăm sóc của bà xã Simone của mày. Để nói với mày rằng
tao hân hoan tới mức độ nào về sự đồng cảm và đồng ý giữa mày và tao dù cách
nhau hàng ngàn cây số. Đúng là sau khi đã vượt qua được cơn khủng hoảng Hinh
(2) chúng ta bắt đầu giải quyết vấn đề các giáo phái trong những điều kiện
không thể nào thuận lợi hơn. Rất tiếc là chúng ta bị kẹt giữa sự thiếu hiểu biết
của Pháp và sự thiếu kinh nghiệm của Hoa Kỳ: đó là sự đánh giá khác nhau về cơ
hội để đánh tan một cách quả quyết và dứt khoát trở ngại phong kiến để giải
thoát dân tộc Việt Nam xấu số và để gắn bó họ với chúng ta. Từ ngày ông Chủ Tịch
(3) lên cầm quyền, chủ trương lớn của chính phủ là đập tan hai trở ngại, hai
vòng sắt, tách biệt dân tộc Việt Nam với chính phủ Việt Nam cấp tiến, đó là
quân đội "quốc gia" và các "giáo phái". Chúng ta đã thắng
trận đầu, chúng ta hy vọng sẽ thắng trận thứ hai, trận chung kết sẽ là cuộc bầu
cử mà chúng ta tin chắc sẽ thắng lợi. Thêm vào đó là thời gian "thiêu đốt"
không cho phép chúng ta nhởn nhơ trên đường đi hay làm những thỏa hiệp như thói
quen. Thời điểm này vừa duy nhất vừa quyết định. Nếu chúng ta không thuyết phục
được Thế Giới Tự Do giúp chúng ta vô hiệu hóa đám thực dân ủng hộ bọn phong kiến
(4) chống lại chính quyền quốc gia chúng ta sẽ rơi vào thảm họa. Nhân dân Việt
Nam sẽ thất vọng và vĩnh viễn bỏ rơi chúng ta. Và Thế Gìới Châu Á mà chúng ta
đã vận động từ mấy tháng nay và đã bắt đầu có cảm tình với chúng ta sẽ quay
lưng lại với chúng ta. Lúc đó chúng ta sẽ cô lập và khốn đốn với Việt Minh. Chớ
nên lặp lại kinh nghiệm 1945-1954. Nếu chỉ được Phương Tây yểm trợ chúng ta chắc
chắc sẽ thua cộng sản Châu Á. Phải tranh thủ được sự hưởng ứng của dân tộc Việt
Nam và cảm tình của các nước Châu Á để viện trợ của Phương Tây, bạch hóa bởi
nhân cách của Chủ Tịch Ngô, có thể hữu hiệu sau khi đã mang nhãn Châu Á. Quan
điểm này đã được thấu hiểu nơi những người thông minh và hiểu rõ hiện tình tại
đây, như Ông M. Roux (bộ ngoại giao) ông Risterucci ( bộ Liên Hiệp Pháp). Phải
vận động để những chỉ thị theo chiều hướng này, mà tao chắc chắn là đã chuẩn bị
sẵn, được khẩn cấp gửi sang Sài Gòn (5). Tướng Ely là một người chân thật nhưng
bản tính lo âu và bi quan (nhìn vụ Hinh = quân đội chia đôi, nội chiến v.v. nếu
ông Chủ Tịch đụng vào Hinh…). Ông tướng này là một loại "Bác sĩ Đành Vậy"
nhìn cái gì cũng đen tối hay đúng ra đỏ rực. Mày hãy nhớ lại những toan tính của
những người cộng sản Pháp muốn thành lập một nhà nước tự trị tại Pháp trong
giai đoạn giải phóng (6), toan tính mà chính phủ Pháp đã không ngần ngại đập
tan trong máu. Phải hy sinh một vài người vì lợi ích của mọi người.
Nước Pháp cho tới nay chưa có một chính sách Đông Dương,
đây là cơ hội cuối cùng để có một.
Chào mày, thằng bạn thân. Cảm ơn mày về những lời khuyên
và khích lệ. Tao vẫn là tao nếu không thì… (một vài chữ cuối cùng không đọc
được vì bị cắt khi làm photocopy)
Chú thích:
Phạm Duy Khiêm, anh ruột nhạc sĩ Phạm Duy, đaị sứ Việt
Nam tại Pháp vào lúc đó, do ông Diệm bổ nhiệm.
1) Tướng Nguyễn Văn Hinh (1913-2005), tổng tham mưu trưởng
Quân Đội Quốc Gia Việt Nam từ 1949, mâu thuẫn với thủ tướng Ngô Đình Diệm và bị
cất chức. Ông trở lại phục vụ trong quân đội Pháp và lên đến cấp trung tướng,
tham mưu trưởng lực lượng không quân chiến lược (nguyên tử) Pháp.
2) Ông Ngô Đình Diệm lúc đó là thủ tướng và Chủ tịch hội
đồng bộ trưởng Quốc Gia Việt Nam.
3) Ở đây ông Nhu muốn nói tới các nhóm giáo phái Bình
Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo được Bảo Đại bảo trợ. Sau khi các giáo phái đã bị dẹp
thì từ "phong kiến" được chính quyền Ngô Đình Diệm dùng để chỉ chế độ
quân chủ.
4) Trong cuộc gặp gỡ với tôi cuối tháng 11-2004, với sự
hiện diện của hai anh Trần Minh Châm và Nghiêm Văn Thạch, ông Bénet cho biết những
chỉ thị đó nằm trong kế hoạch giúp ông Diệm gồm thu quyền lực về một mối, trước
hết là giải tán quân đội của các giáo phái.
5) Giai đoạn sau 1945 khi Paris được giải phóng, lực lượng
võ trang của Đảng Cộng Sản Pháp rút về khu Rambouillet định thành lập một khu tự
trị nhưng bị dẹp tan.
Phụ đính 2:
Thư của ông Jacques Bénet gửi bà Ngô Đình Nhu
Bà Ngô Đình Nhu (1924-2011)
Jacques Bénet
5 rue Vavin, 75006 Paris Paris le 18 octobre 2004
Chère Madame,
Depuis que je suis passé vous voir chez vous, voici une
dizaine de jours, j'ai remis la main dans "mes" papiers sur une
lettre que vous m'avez adressée le 22 août 1976, vraisemblablement de Rome.
Je joins à ce courrier l'original de cette lettre. Vous y
faites état de ce que je vous ai annoncé que j'avais retrouvé le dossier confié
par vous en 1963.
En 1976 j'étais fonctionnaire en poste au Ministère de la
Coopération et j'ai pris mon congé annuel en juillet ou en août. J'avais repris
mon service au plutard au 1er Septembre.
Il n'est pas pensable que votre fils Quỳnh ne soit pas
parvenu à me joindre pour que je lui remette ce dossier chez moi ou à Suffren.
Et, pourtant, il ne semble pas vous être parvenu ce
dossier puisque vous le demandez maintenant. Mystère total, dans le quel je ne
suis pas le seul impliqué!
Je comprends maintenant que ce dossier que je vous ai
remis la semaine dernière n'ait pu vous satisfaire.
Il a vraisemblablement été constitué par des copies de
lettre anciennes, datées de la période 1963 – 1964, mais que vous m'avez
remises par la suite en même temps que les copies de lettres à Andréotti et au
Pape qui ont été écrites par vous plus tardivement.
Dans la période de 1976 à 1980, où je venais de me remarier,
j'ai envoyé en Normandie quelques meubles, objets, livres ou documents, parce
que je remettais à neuf mon appartement et que les documents, que je vous ai
remis l'autre jour, après les avoir récupérés en Normandie ont dû m'apparaître
dans ces années 1976 -1980 comme des documents "pour mémoire" sans
utilisation immédiate possible et ne contenant pas d'nformations
"brûlantes".
Vous m'avez dit lors de cette dernière recontre que vous
aviez trouvé "désinvolte" la réponse que je vous aurais faite
lorsque, pour la première fois, vous m'avez redemandé le dossier confié fin
1963.
Je ne me rappelle pas avoir eu envers vous, cette fois là
ou une autre, une attitude de désinvolture. Mais si vous en gardez le souvenir
c'est que je vous ai paru alors effectivement "désinvolte". Et je
vous pris de bien vouloir m'en excuser.
Mais j'ai remarqué depuis de nombreuses années que, de
votre côté, vous avez fait montre d'une désinvolture certaine, vis-à-vis du
président Ngô Đình Diệm, de votre mari, de moi-même et de quelques autres en ne
vous souciant jamais de savoir comment le futur président Ngô Đình Diệm avait
accédé au pouvoir en 1954!
La Providence, certes oui, car Dieu gouverne toutes
choses, mais il se sert bien souvent de modestes relais humains pour
concrétiser ses desseins.
Or votre mari, Ngo Dinh Nhu, a eu l'intuition géniale -
dictée bien sûr par la Providence - que le moment était arrivé, en mars 1954
pendant la bataille de Đien Bien Phu, d'essayer de convaincre le gouvernement
français d'alors (gouvernement Laniel – Bidault – Reynaud), qui disposait
encore de quelques atouts déterminants quant au destin de l'ancienne Indochine
pour permettre d'urgence la venue au pouvoir de son frère, Monsieur Ngo Đinh
Diem, personnalité nationaliste vietnamienne d'une réputation sans tâche et
d'une notoriété évidente, afin de prendre la tête du gouvernement vietnamien
non communisé.
Du même coup, Nhu décide l'envoi à Paris pour facilité la
prise de contact avec le gouvernement français son camarade du combat
nationaliste Tran Chanh Thanh – revenu totalement de ses illusions communistes.
La mission première que Nhu donne à Tran Chanh Thanh est de me joindre afin que
je l'aide à faciliter cette prise de contact. Nhu, que j'ai reçu à la maison à
Paris en 1949 avant le décès de ma première femme, savait que je disposais de
relations avec divers hommes politique français.
Une lettre personnelle de Nhu m'annonce d'ailleur la
mission de Thành.
Bien que vous n'aimiez guerre Trân Chánh Thành, ce
dernier s'est révélé être, lui aussi, un homme "providentiel", dans
la chaine de ceux qui ont permis, en fin de compte, à Monsieur Ngo Dinh Diem
d'être reçu successivement par le président Laniel et par le Ministre des
Affaires étrangères Georges Bidault.
Il s'est trouvé, entre temps, que j'ai été moi aussi,
"providentiellement", un maillon indispensable dans la chaine qui a
conduit à ce fait.
Ma confiance totale en mon cher ami Nhu et la certitude
acquise par moi qu'il était plus que temps, en ce moment de 1954, de voir
conférer au Vietnam non communiste son indépendance totale, jointes à
l'évidence que Monsieur Ngo Đinh Diem était bien l'homme
"providentiel" pour assumer la charge de diriger cette indépendance,
m'avaient déterminé à agir.
Et j'ai pu passer toute ma conviction à un de mes
meilleurs amis français, Antoine Ahon, qui avait ses entrées personnelles au
cabinet au Président René Laniel par le directeur de cabinet, le préfet Germain
Vidal, et auprès du Secrétaire d'Etat à la Présidence Bougenot passé
directement sous les ordres du Président Laniel. Mon ami Ahon, d'autrepart,
connaissait bien personnellement le Ministre des Affaires Etrangères Georges
Bidault.
Homme "providentiel" à son tour, Antoine Ahon a
été l'introducteur parfait de Trân Chánh Thành auprès des deux personalités
précitées du cabinet du Président Laniel et auprès de Geoges Bidault.
L'intelligence, la fidélité et le sens de l'efficacité de
Trần Chánh Thành des ont fait l'essentiel du reste. En plusieurs entretiens
espacés de la fin mars à la mi mai 1954 il a eu loisir d'exposer la situation
d'alors au Vietnam, d'un authentique point de vue nationaliste vietnamien, et
les qualités exceptionnelles de Monsieur Ngô Đình Diêm pour assurer le pouvoir
au Vietnam du Sud en ces temps particulièrement critiques.
C'est ainsi que le Président Laniel et le Ministre
Bidault accueillirent, dans les meilleures dispositions d'esprit Monsieur Ngô
Đinh Diêm.
Et, "providentiellement" encore, ces deux
personalités responsables, après hésitation et réflexion, comprirent que, à
l'approche de la chute de leur gouvernement, il s'imposait pour sauver le
Vietnam en grand danger d'engloutissement dans le Monde Communiste, et tenter
de la sorte de préserver les futures relations franco-vietnamiennes d'obtenir
d'urgence de l'empereur Bao Đai, encore officiellement Chef d'Etat du Vietnam
la nomination de Ngo Đinh Diem à la tête du gouvernement vietnamien.
Cela fut fait par décret de Bao Đai pris au début de juin
1954, quelques jour seulement avant que le gouvernement Laniel – Bidault –
Reynaud fasse place au gouvernement Mendès France.
Cela fut possible parce que le gouvernement français
d'alors disposait vis-à-vis de Bao Đai, particulièrement de divers moyens de
pression déterminants.
Et cette décision, qui fut majeure et
"providentielle" pour le Vietnam n'aurait jamais été prise par le
gouvernement Mendès France totalement sous l'influence de courants politiques
français décidés à s'en tenir à la lettre des accords de Genève de juin 1954
qui envisageaient la tenue d'élections législatives étendues à tout le Vietnam,
Nord et Sud.
De telles élections auraient abouti, selon toute
vraisemblance, à installer le pouvoir communiste, dès ce moment là sur tout le
Vietnam, fermant toute perspective à Ngo Đinh Diem d'accéder un jour au
pouvoir.
Ce dernier étant tellement convaincu de cela qu'il est
venu chez moi me remercier de mes efforts et de ceux de mon ami Ahon, au cours
des quelques jours qui ont séparé la sortie du décret de Bao Đai de son départ
en avion pour rejoindre son poste à Saigon
J'en suis toujours à m'étonner, chère Madame, que vous
n'ayez jamais cherché à connaître le processus de l'ascension au pouvoir du
Président Ngo Đinh Diem.
Il est vrai que mon ami Nhu était particulièrement
discret. Mais une épouse décidée ne parvient-elle pas généralement à percer les
secrets entretenus par son mari?
Je vous prie d'agréer, chère Madame, l'expression de ma
très respectueuse considération.
(Signature de Jacques Bénet)
Ci-joint votre lettre du 22 août 1976
Chuyển ngữ:
Jacques Bénet
5 rue Vavin, 75006 Paris Paris le 18 octobre 2004
Thưa Bà,
Từ khi tới gặp Bà tại tư gia cách đây khoảng mười hôm tôi
đã tìm lại được trong những giấy tờ "của tôi" một thư Bà đã gửi cho
tôi ngày 22 tháng 8-1976, có lẽ từ Rome.
Tôi gửi kèm theo thư này bản chính của thư đó. Bà viết
trong thư rằng tôi đã thông báo với Bà là đã tìm lại được tập hồ sơ Bà đã giao
cho tôi năm 1963.
Năm 1976 tôi còn là công chức ở bộ Hợp Tác và tôi nghỉ hè
tháng 7 hoặc tháng 8. Tôi đi làm trở lại trễ lắm là ngày 01 tháng 9.
Khó có thể nghĩ là anh Quỳnh con trai Bà lại không thể
liên lạc được với tôi để tôi trao lại tập hồ sơ này, tại nhà tôi hay tại
Suffren.
Và dầu vậy tập hồ sơ này đã không tới tay Bà, bằng chứng
là bây giờ mà còn hỏi tôi. Bí ẩn hoàn toàn, trong đó tôi không phải là người
liên can duy nhất!
Bây giờ tôi hiểu là tập hồ sơ mà tôi đã trao cho Bà tuần
trước đã không làm Bà hài lòng.
Nó có lẽ gồm những bản sao của các thư cũ, viết trong
giai đoạn 1963 – 1964, mà Bà đã trao cho tôi sau đó cùng lúc với các bản sao
các thư gửi Andreotti và Đức Giáo Hoàng do Bà viết sau đó.
Trong những năm từ 1976 đến 1980, lúc tôi vừa tái hôn,
tôi đã gửi đi Nordmandie một số giường tủ, vật dụng, sách và tài liệu vì tôi
tân trang căn hộ của tôi, và những tài liệu mà tôi trao lại Bà hôm trước sau
khi tìm thấy tại Nordmandie có vẻ là những tài liệu mà trong giai đoạn 1976
-1980 tôi cho là chỉ "giữ để nhớ" chứ không có công dụng tức khắc
nào. Và không chứa đựng một dữ kiện "nóng hổi" nào.
Bà đã nói với tôi trong lần gặp cuối rằng Bà thấy tôi đã
trả lời Bà một cách "vô tư" khi lần đầu tiên Bà yêu cầu tôi hoàn lại
tập hồ sơ mà Bà đã nhờ tôi giữ hộ năm 1963.
Tôi không nhớ đã có thái độ vô tư đối với Bà lúc đó hay một
lúc nào khác. Nhưng nếu Bà vẫn còn nhớ như vậy thì chắc là tôi phải đã tỏ ra vô
tư. Và tôi xin Bà thứ lỗi cho.
Tuy nhiên tôi đã nhận thấy từ nhiều năm rồi chính Bà tỏ
ra rất vô tư đối với Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đối với chồng Bà, đối với chính
tôi và đối với vài người khác khi không bao giờ chịu tìm hiểu vào năm 1954 vị tổng
thống tương lai Ngô Đình Diệm đã lên cầm quyền như thế nào.
Dĩ nhiên là do Chúa muốn (1), bởi vì Chúa điều khiển tất
cả, nhưng Người cũng dùng những con người làm những trung gian khiêm tốn để cụ
thể hóa ý muốn của Người.
Vì thế mà chồng Bà, Ngô Đình Nhu, đã có trực giác thiên
tài, chắc chắn do Chúa khiến, là đã đến lúc, vào tháng 3-1954, khi trận Điện
Biên Phủ đang diễn ra, để thử thuyết phục chính phủ Pháp (chính phủ Laniel
–Bidault – Reynaud) lúc đó vẫn còn một vài con bài quyết định đối với số phận của
Đông Dương cũ để khẩn cấp đưa anh mình là ông Ngô Đình Diệm, một nhân vật quốc
gia không vẩn gợn và có uy danh rõ rệt, lên cầm dầu chính phủ Việt Nam không cộng
sản.
Cùng lúc Nhu quyết định gửi sang Paris người chiến hữu quốc
gia của mình là Trần Chánh Thành - vừa hoàn toàn hồi phục khỏi những ảo tưởng cộng
sản- để tiếp xúc với chính phủ Pháp. Sứ mạng đầu tiên mà Nhu giao phó cho Trần
Chánh Thành là tìm gặp tôi để nhờ tôi giúp bắt liên lạc. Nhu đã từng tới nhà
tôi năm 1949 trước khi người vợ đầu của tôi qua đời và biết rằng tôi có quan hệ
với nhiều chính khách Pháp.
Nhu có viết thư riêng cho tôi báo trước chuyến công tác của
Thành.
Dù Bà không ưa Trần Chánh Thành, ông này đã tỏ ra là một
người "Chúa ban" trong chuỗi sự kiện đã khiến ông Ngô Đình Diệm tuần
tự được thủ tướng Laniel và bộ trưởng ngoại giao Bidault tiếp.
Tình cờ là trong thời gian đó chính tôi cũng "do ý
Chúa" đã là một mắt xich không có không được trong diễn tiến dẫn tới kết
quả này.
Lòng tin hoàn toàn vào bạn Nhu và nhận định chắc chắn là
tình thế đã quá chín muồi vào thời điểm đó, 1954, để trả lại độc lập hoàn toàn
cho Việt Nam, cùng với điều hiển nhiên là ông Ngô Đình Diệm đúng là nhân vật
"Chúa khiến" để lèo lái nền độc lập này, đã thúc đẩy tôi quả quyết
hành động.
Và tôi đã chia sẻ được lòng tin của mình với một trong những
người bạn Pháp thân nhất của tôi, ông Antoine Ahon, một người có liên hệ mật
thiết với văn phòng Chủ Tịch René Laniel (1), qua trung gian của ông chủ nhiệm
văn phòng, tổng đốc Germain Vidal, và có liên hệ với bộ trưởng tại phủ chủ tịch
Bougenot, trực tiếp dưới quyền Chủ Tịch Laniel. Anh bạn Ahon, mặt khác cũng
quen thân với bộ trưởng ngoại giao Georges Bidault.
Cũng là một người "Chúa khiến", Antoine Ahon đã
là người trung gian tuyệt vời cho Trần Chánh Thành với hai nhân vât kể trên
(Vidal và Bougenot) trong văn phòng Chủ Tịch Laniel và Geoges Bidault.
Trí thông minh, sự trung thành và giác quan hiệu quả của
Trần Chánh Thành đã là hoàn thành cốt lõi phần còn lại. Qua nhiều trao đổi
trong thời gian từ cuối tháng 3 đến giữa tháng 5-1954 ông ta đã trình bày tình
trạng Việt Nam lúc đó với nhãn quan quốc gia chân chính cũng như những đức tính
xuất chúng của ông Ngô Đình Diệm để cầm quyền tại miền Nam Việt Nam trong giai
đoạn khẩn trương này.
Chính vì thế mà chủ tịch Laniel và bộ trưởng Bidault đã
tiếp ông Ngô Đình Diệm một cách thuận lợi.
Và cũng nhờ "ơn Chúa", hai vị lãnh đạo này, sau
khi đắn đo suy nghĩ đã hiểu rằng, vào lúc chính quyền chính phủ của họ sắp đổ,
bắt buộc phải cứu Việt Nam đang đứng trước hiểm họa lớn là bị nuốt chửng vào Thế
Giới Cộng Sản, và phải cố cứu vãn quan hệ Pháp Việt bằng cách khẩn cấp khiến
Hoàng Đế Bảo Đại, lúc đó vẫn còn là quốc trưởng Việt Nam chính thức, bổ nhiệm
Ngô Đình Diệm đứng đầu chính phủ.
Điều này đã được thực hiện bằng dụ (sắc luật) của Bảo Đại
đầu tháng 6-1954, chỉ vài ngày trước khi chính phủ Laniel –Bidault – Reynaud
bàn giao quyền hành cho chính phủ Mendès France.
Điều này đã có thể thực hiên được vì chính quyền Pháp lúc
đó có nhiều phương tiện để gây áp lực quyết định trên Bảo Đại (2).
Và quyết định tối quan trọng và "theo ý Chúa"
này đối với Việt Nam chắc chắn đã không thể có với một chính phủ Mendès France
hoàn toàn chịu ảnh hưởng của khuynh hướng chính trị Pháp đòi thực hiện y chang
Hiệp Định Genève tháng 6-1954, theo đó sẽ có tổng tuyển cử trên toàn cõi Việt
Nam, Bắc cũng như Nam.
Cuộc tổng tuyển cử này hầu như chắc chắn sẽ dẫn tới kết
quả là thiết lập chế độ cộng sản trên cả nước Việt Nam và triệt tiêu mọi hy vọng
cầm quyền của Ngô Đình Diệm.
Ông này đã hiểu rất rõ như vậy nên ông đã đến nhà tôi để
cảm ơn tôi và bạn Ahon của tôi trong khoảng thời gian vài ngày từ khi ông được
Bảo Đại bổ nhiệm đến khi ông lên máy bay về Sài Gòn nhận chức.
Tôi luôn luôn ngạc nhiên tại sao Bà chưa bao giờ bận tâm
tìm hiểu tiến trình đã đưa Tổng Thống Ngô Đình Diệm lên cầm quyền.
Đúng là anh bạn Nhu của tôi rất kín đáo. Nhưng một người
vợ quyết tâm không lẽ lại không khám phá ra được những bí mật của chồng mình?
Xin gửi Bà lời chào rất trân trọng.
(ký tên Jacques Bénet)
Đính kèm thư của Bà ngày 22 tháng 8-1976
Chú thích:
1) Bà Ngô Đình Nhu tin rằng việc ông Ngô Đình Diệm lên cầm
quyền là hoàn toàn do ý Chúa.
2) Nước Pháp lúc đó theo chế độ đại nghị, thủ tướng là chủ
tịch hội đồng bộ trường.
3) Khi tôi hỏi ông trong bữa ăn trưa cùng với hai anh Trần
Minh Châm và Nghiêm Văn Thạch áp lực nào thì Jacques Bénet mỉm cười nói rằng Bảo
Đại ăn chơi cờ bạc nên luôn luôn có nhiều vấn đề, kể cả tài chính.
(NGUYỄN GIA KIỂNG/ Thông luận)
Thư của ông Ngô Đình Nhu gửi ông Jacques Bénet
Thư của ông Jacques Bénet gửi bà Ngô Đình Nhu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét